LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH LÂM ĐỒNG (1975 - 2005) In trang
19/03/2019 12:00 SA

Chỉ đạo biên soạn

BAN THƯỜNG VỤ TỈNH UỶ LÂM ĐỒNG

Ban chỉ đạo

LÊ THANH PHONG

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ - Trưởng ban

KHUẤT MINH PHƯƠNG

Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ - Phó ban

TRƯƠNG VĂN THU

Tỉnh uỷ viên, Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh - Uỷ viên

TRẦN DUY VIỆT

Tỉnh uỷ viên, Chánh Văn phòng Tỉnh uỷ - Uỷ viên

NGUYỄN VĂN YÊN

Tỉnh uỷ viên, Giám đốc Sở Tài chính - Uỷ viên

NGUYỂN THỊ MỸ CÔNG

Phó Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ - Uỷ viên

Ban biên tập

NGUYỄN VĂN HƯƠNG

NGUYỄN SĨ HIỀN

NGÔ XUÂN TRƯỜNG

NGUỴ XỨNG HÙNG

NGUYỄN THỊ MỸ CÔNG

HỒ VỸ

NGÔ VIỆT DŨNG

-------------------

CHƯƠNG I

TẬP TRUNG LÃNH ĐẠO ỔN ĐỊNH TÌNH HÌNH, KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, KHÔI PHỤC VÀ XÂY DỰNG KINH TẾ, VĂN HOÁ-XÃ HỘI

 (4-1975 đến 1979)

I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH LÂM ĐỒNG SAU NGÀY GIẢI PHÓNG

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 toàn thắng đã kết thúc quá trình ba mươi năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị hơn một trăm năm của chủ nghĩa đế quốc, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử giành lại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, mở ra một bước ngoặt vĩ đại về thiết lập quyền làm chủ của nhân dân, đưa cả nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Đảng bộ tinh Lâm Đồng là một trong những Đảng bộ có tổ chức Đảng ra đời sớm, trải qua nhiều thử thách, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm lãnh đạo trong đấu tranh cách mạng. Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu để Lâm Đồng vượt qua khó khăn, giành nhiều thắng lợi trong chặng đường tiếp theo.

Bước vào giai đoạn cách mạng mới, ngoài yếu tố quyết định là sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ tỉnh, cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc Lâm Đồng có những thuận lợi rất cơ bản. Trải qua cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc, đã hình thành và rèn luyện thử thách đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tỉnh có lập trường chính trị tư tưởng vững vàng. Dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng, sự chỉ đạo trực tiếp của Khu uỷ VI, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Lâm Đồng đã phát huy truyền thống đoàn kết trong kháng chiến chống xâm lược; nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn, thử thách, nhanh chóng tiếp quản và thích ứng với điều kiện mới ; động viên và phát huy sức mạnh của quần chúng tham gia thiết lập chính quyền cách mạng, xây dựng, củng cố các đoàn thể nhân dân, mở rộng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, đấu tranh triệt để với các tổ chức, đảng phái và lực lượng phản động FULRO, từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội.

Cùng với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, của Khu uỷ VI, mối quan hệ khăng khít tương trợ giúp đỡ lẫn nhau với các địa phương bạn trên địa bàn Nam Tây Nguyên, cực Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ đã tạo nên sức mạnh tổng hợp để Lâm Đồng giành được những thắng lợi trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng.

Bước vào thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Lâm Đồng gặp vô vàn khó khăn, hậu quả của ba mươi năm chiến tranh để lại khá nặng nề. Là một tỉnh có vị trí quan trọng ở Nam Tây Nguyên nên số đông nguỵ quân, nguỵ quyền, bọn tình báo, gián điệp tìm cách trụ lại và coi đây là địa bàn thuận lợi để tập hợp các tổ chức phản động nhằm chống phá cách mạng. Trong kháng chiến, địch tập trung một số lượng khá lớn bộ máy kìm kẹp, xây dựng các căn cứ quân sự, đồn bốt, ấp chiến lược, tạo thành một hệ thống phòng thủ liên hoàn án ngữ, bảo vệ các cơ quan đầu não và ngăn chặn sự phát triển của lực lượng cách mạng tại các trung tâm như thành phố Đà Lạt, các huyện Đức Trọng, Di Linh và Bảo Lộc.

Sau khi thất bại hoàn toàn trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ triển khai kế hoạch hậu chiến phản động ở địa bàn Tây Nguyên trong đó có tỉnh Lâm Đồng. Chúng tiếp tục tổ chức, nuôi dưỡng lực lượng vũ trang FULRO kết hợp với bọn phản động đội lốt các tôn giáo, nhất là trong Tin lành ; bọn nguỵ quân, nguỵ quyền không chịu trình diện học tập cải tạo cùng các tổ chức phản động khác ráo riết hoạt động chống phá cách mạng nhằm thực hiện kế hoạch hậu chiến của Mỹ. Một mặt chúng tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa xã hội, gây tâm trạng hoang mang, nghi ngờ đối với cách mạng; gây chia rẽ giữa đồng bào Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số, giữa đồng bào theo đạo và không theo đạo. Mặt khác chúng cài cắm một số phần tử xấu vào bộ máy chính quyền, đoàn thể, trong hệ thống chính trị để phá hoại ta từ bên trong, lôi kéo thanh niên ra rừng bổ sung cho lực lượng FULRO. Các thế lực phản động gây ra nhiều vụ bạo động vũ trang, giết hại cán bộ, bộ đội, cơ sở cốt cán, phục kích trên đường giao thông, xâm nhập phá hoại các nông trường, lâm trường, trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, cơ sở sản xuất gây cho ta một số tổn thất, làm cho tình hình an ninh càng thêm phức tạp.

Trải qua một thời gian dài bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ đã để lại trong tỉnh hậu quả nặng nề và nghiêm trọng như tư tưởng chống cộng, hận thù giai cấp, kỳ thị dân tộc, chia rẽ tôn giáo. Những tàn dư đó cùng với những nọc độc của nền văn hoá đồi truỵ, phản động, coi trọng lối sống thực dụng ích kỷ, các tệ nạn cờ bạc, mại dâm, xì ke ma tuý, trộm cắp, mê tín dị đoan, thất nghiệp, nghèo đói, bệnh tật, nạn mù chữ và các tập tục lạc hậu khác... là những trở lực ngăn cản sự phát triển của tỉnh. Sau ngày giải phóng, toàn tỉnh có gần 70.000 học sinh, nhưng ở vùng dân tộc thiểu số chỉ có 20% số người biết chữ. Cơ sở y tế của chính quyền địch để lại không đáng kể, đội ngũ y, bác sỹ thiếu, thuốc chữa bệnh không đủ để đáp ứng nhu cầu phục vụ nhân dân. Hoạt động văn hoá-văn nghệ, thông tin nghèo nàn. Trong các vùng dân tộc thiểu số, đạo Tin lành phát triển mạnh, một số phần tử lợi dụng tôn giáo tổ chức các vụ bạo loạn, khống chế, lôi kéo quần chúng chống lại cách mạng.

Về lĩnh vực kinh tế : là một tỉnh miền núi, chủ yếu sản xuất nông-lâm nghiệp, cơ cấu kinh tế và phân bổ lao động mất cân đối nghiêm trọng. Sản xuất lương thực không đủ ăn, mỗi năm Trung ương phải chi viện 40.000-50.000 tấn gạo. Lực lượng lao động phân bố không đều, số người không tham gia sản xuất ra của cải vật chất chiếm tỷ lệ rất lớn, hàng vạn người không có công ăn việc làm. Cơ sở kinh tế có trên 6.000 ha chè, gần 30 cơ sở chế biến chè, diện tích cây cà phê khoảng 1.000 ha, có gần 3.000 ha rau, hoa và cây ăn trái, gần 2.000 ha cây lương thực sản xuất tại chỗ để giải quyết nhu cầu lương thực cho nhân dân. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có một số cơ sở sửa chữa cơ khí, chế biến quy mô nhỏ ở Đà Lạt và Bảo Lộc, còn hầu hết các địa phương khác chưa phát triển. Cơ sở vật chất-kỹ thuật công nghiệp nghèo nàn, chỉ có hai nhà máy sản xuất đồ sứ, một số nhà máy xẻ gỗ với thiết bị máy móc lạc hậu.

Nền kinh tế Lâm Đồng sau ngày giải phóng chủ yếu là sản xuất nhỏ. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật thấp kém, hệ thống đường giao thông trong điều kiện chiến tranh không được tu sửa, bảo dưỡng nên xuống cấp nghiêm trọng, kể cả đường 20 độc đạo nối Đà Lạt với Sài Gòn và đường 21 kéo dài. Hệ thống điện chỉ có một nhà máy thuỷ điện nhỏ cung cấp điện cho các trung tâm: Đà Lạt, Đơn Dương, Đức Trọng và một nhà máy nhiệt điện chỉ đủ cung cấp cho vài ngàn hộ dân ở thị xã Bảo Lộc mỗi ngày vài giờ. Hệ thống nước sạch chỉ cung cấp được cho một số hộ dân ở trung tâm Đà Lạt, Bảo Lộc, nhưng vào mùa khô nước sinh hoạt cũng thiếu trầm trọng.

Về bộ máy chính quyền và các đoàn thể: Ngày 28-3-1975, tỉnh Lâm Đồng (cũ) hoàn toàn giải phóng. Nhiệm vụ quan trọng cấp bách là thiết lập chính quyền cách mạng, ổn định tình hình, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Cuối tháng 3-1975, thực hiện sự chỉ đạo của Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu VI, tỉnh Lâm Đồng (cũ) thành lập Uỷ ban quân quản. Đồng chí Nguyễn Xuân Du được cử làm Chủ tịch, đến tháng 5-1975 đồng chí Trần Thành làm Chủ tịch thay đồng chí Nguyễn Xuân Du đi nhận nhiệm vụ khác. Ngày 04-4-1975, Uỷ ban quân quản tỉnh Lâm Đồng tổ chức cuộc mít tinh, có hàng ngàn quần chúng nhân dân, cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang tham gia. Trong niềm vui chung của nhân dân các dân tộc mừng Tây Nguyên và Lâm Đồng được giải phóng, Uỷ ban quân quản thông báo chương trình hành động của địa phương, chính sách 10 điểm của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, kêu gọi đồng bào các dân tộc, các tôn giáo phát huy truyền thống cách mạng và quyền làm chủ, đoàn kết xây dựng chế độ mới, xây dựng chính quyền nhân dân.

Trưa ngày 3-4-1975, tỉnh Tuyên Đức được hoàn toàn giải phóng. Đến 16 giờ chiều hôm đó, tại khu Hoà Bình thành phố Đà Lạt đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn, có đông đảo các tầng lớp nhân dân đến dự. Đồng chí Đỗ Quang Thắng thay mặt lãnh đạo Khu uỷ khu VI nói chuyện với đồng bào. Sau khi thông báo những thắng lợi to lớn của chiến trường miền Nam, của Khu VI và trong tỉnh, đồng chí kêu gọi đồng bào giữ gìn trật tự, tham gia mọi công tác của Uỷ ban quân quản đề ra để sớm ổn định cuộc sống bình thường, kêu gọi nguỵ quân, nguỵ quyền đã tan rã và các tổ chức phản động trình diện, nộp vũ khí.

Tối ngày 3-4-1975, tại số nhà 15 đường Trần Hưng Đạo - Đà Lạt đã tiến hành cuộc họp có đại diện Thường vụ Khu uỷ và Quân khu VI, cán bộ của các cơ quan tiền phương, một số đồng chí Thành uỷ viên thành phố Đà Lạt và cán bộ các đội công tác để thành lập Uỷ ban quân quản tỉnh Tuyên Đức và Uỷ ban quân quản thành phố Đà Lạt. Đồng thời, phân công cán bộ trực tiếp chỉ đạo từng khu vực để ổn định tình hình, bố trí lực lượng vũ trang canh gác, đóng chốt ở những địa bàn quan trọng, phân công cán bộ xuống các địa bàn tiến hành việc lập chính quyền lâm thời ở phường, xã và công bố bản Mệnh lệnh số 1 gồm 10 điểm nhằm bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh xã hội.

Hai tỉnh Lâm Đồng (cũ) và Tuyên Đức được giải phóng, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị chủ lực tiếp tục tấn công địch giải phóng các tỉnh còn lại ở khu VI, nối thông quốc lộ 20 với quốc lộ I để các binh đoàn chủ lực của ta hành quân đánh chiếm giải phóng phía đông bắc thành phố Sài Gòn góp phần kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Sau khi thành lập, Uỷ ban Quân quản chỉ đạo nhiệm vụ xây dựng củng cố lực lượng, phân công chốt giữ các cơ sở quan trọng như Toà hành chính, các cơ sở quân sự của địch bỏ lại, tiếp quản bưu điện, ngân hàng, nhà máy điện, nhà máy nước, Nha địa dư, lò phản ứng hạt nhân và những kho tàng vật tư, lương thực, hàng hoá, xăng dầu của địch và của các chủ tư sản để lại; tổ chức kiểm kê tài sản, tiền, hàng hoá, đất đai để quản lý.

Sử dụng lực lượng cán bộ, bộ đội làm nòng cốt, thành lập các tổ công tác tăng cường xuống các địa bàn để thành lập Uỷ ban quân quản các cấp. Từng bước ổn định tình hình các mặt, vận động nhân dân các dân tộc, các tôn giáo đoàn kết tham gia xây dựng và ủng hộ chính quyền cách mạng, góp sức mau chóng ổn định tình hình, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội, từng bước khôi phục sản xuất, xây dựng đời sống và hình thành các đoàn thể cách mạng.

Chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày giải phóng, về mặt tổ chức hành chính và lãnh đạo hai tỉnh Lâm Đồng (cũ) và Tuyên Đức có nhiều lần thay đổi, ở tỉnh Lâm Đồng (cũ) đồng chí Trần Như Khuôn (Năm Lực) làm Bí thư Tỉnh uỷ, đồng chí Nguyễn Xuân Du làm Phó Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban cách mạng tỉnh. Ở tỉnh Tuyên Đức, tháng 5-1975, Thường vụ Khu uỷ khu VI chỉ định đồng chí Nguyễn Xuân Khanh làm Quyền Bí thư Tỉnh uỷ, đồng chí Chế Đặng làm Quyền Chủ tịch Uỷ ban cách mạng Tỉnh. Ngày 20-9-1975, Bộ Chính trị quyết định Đà Lạt là thành phố trực thuộc Trung ương, đồng chí Huỳnh Minh Nhựt làm Bí thư Thành uỷ.

Thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 24 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, ngày 20-9-1975 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về chủ trương giải thể cấp khu, hợp nhất một số tỉnh. Các tỉnh Lâm Đồng, Tuyên Đức, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy được nhập lại thành tỉnh Thuận Lâm, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Phan Rang..

Ngày 6-1-1976, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định giải thể tỉnh Thuận Lâm, hợp nhất tỉnh Lâm Đồng, tỉnh Tuyên Đức và thành phố Đà Lạt thành tỉnh Lâm Đồng, Ban chấp hành Đảng bộ lâm thời tỉnh lúc đó có 28 đồng chí do đồng chí Trần Lê làm Bí thư, đồng chí Đỗ Quang Thắng làm Phó Bí thư thường trực, đồng chí Lê Thứ làm Phó Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh. Tỉnh Lâm Đồng lúc đó có 52 xã, trong đó có 17 xã vùng căn cứ cũ, gồm 4 huyện và 1 thành phố, tỉnh lỵ đặt tại thành phố Đà Lạt.

Là một tỉnh miền núi thuộc Nam Tây Nguyên, nằm giữa các toạ độ: 11o 12’- 12o 15’ vĩ độ Bắc và 107o 45’ kinh độ Đông. Lâm Đồng có diện tích 10.473 km2 , chiếm khoảng 2,9% diện tích cả nước, phía đông giáp các tỉnh Phú Yên, Khánh Hoà; phía Tây giáp tỉnh Bình Phước; phía Tây Nam giáp tỉnh Đồng Nai; phía nam, đông nam giáp tỉnh Bình Thuận; phía bắc giáp tỉnh Đăk Lăk.

Lúc mới hợp nhất, dân số Lâm Đồng có 347.314 người (người Kinh có 236.436 người, dân tộc ít người có 110.878 người), với 33 dân tộc cùng chung sống bao gồm các dân tộc bản địa như Cơ Ho, Mạ, Chu Ru, M’Nông, Rắclây, Stiêng và các dân tộc thiểu số ở các tỉnh phía Bắc như Hoa, Tày, Nùng, Thái, Mường. Mỗi dân tộc có nguồn gốc lịch sử định cư, trình độ phát triển kinh tế-xã hội, đặc điểm văn hoá khác nhau.

Các dân tộc thiểu số bản địa cư trú rải rác khắp các địa bàn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng thượng lưu của các dòng sông lớn. Các dân tộc thiểu số ở các tỉnh phía Bắc di cư vào chủ yếu sống ở các trung tâm và xen kẽ trên các địa bàn tỉnh.

Cư dân đến Lâm Đồng từ nhiều địa phương, nhiều vùng, nhiều thời kỳ khác nhau nhưng đã đoàn kết, gắn bó đùm bọc lẫn nhau. Mỗi địa phương, mỗi vùng đều có những nét văn hoá riêng nên khi đến sống xen kẽ địa bàn, xen canh, xen cư đã tạo nên một đời sống văn hoá phong phú, đa dạng, khác với văn hoá truyền thống vùng núi và đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ và miền Trung Bộ. Dân cư đến Lâm Đồng sinh sống phần lớn là người lao động. Họ rất cần cù, chất phác, thật thà và có tinh thần đấu tranh chống thực dân phong kiến. Khi đến làm ăn sinh sống tại các địa phương họ đều mang theo truyền thống cách mạng của quê hương. Các bộ phận nhân dân là một lực lượng cách mạng to lớn, góp phần quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, cũng như trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

II. KHẮC PHỤC MỘT BƯỚC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, KHÔI PHỤC SẢN XUẤT KINH TẾ, ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG XÃ HỘI TRONG TỈNH

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Uỷ ban Quân quản các cấp, tình hình các mặt trong tỉnh dần đi vào ổn định. An ninh trật tự được giữ vững, cơ bản đập tan sự đề kháng của lực lượng nguỵ quân, nguỵ quyền tan rã tại chỗ. Từ tháng 5 đến 7-1975, có 24.284 tên ra trình diện, đa số trong đó chịu tập trung học tập cải tạo, số đông có chiều hướng tiến bộ, mong muốn trở về với gia đình, ngăn chặn và đập tan âm mưu tập hợp lại lực lượng, gây bạo loạn của tổ chức Liên tôn chống cộng ở Đà Lạt. Bên cạnh đó, một số tên ngoan cố phản động bao gồm số nguỵ quân, nguỵ quyền cao cấp, bọn tình báo, cảnh sát đặc biệt không chịu trình diện đang ngấm ngầm âm mưu chống phá cách mạng dưới các hình thức hoạt động tôn giáo, thương mại, du lịch.

Bọn FULRO, một tổ chức phản động có thế lực ảnh hưởng tương đối rộng trong vùng đồng bào dân tộc ít người, đã từng được thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bọn phản động bên ngoài nuôi dưỡng, giúp đỡ nhằm chống lại cách mạng. Chúng có kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động chính trị, vũ trang, có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức phản động khác, nhất là bọn phản động đội lốt tôn giáo.

Ngay từ những ngày đầu sau giải phóng, lợi dụng tình hình của ta chưa ổn định, bọn FULRO tổ chức đánh vào cơ quan chính quyền cách mạng nhằm gây bạo loạn lật đổ chính quyền, lập mật khu chống phá cách mạng, hoạt động vũ trang, ám sát cán bộ, lén lút xúi dục, lôi kéo và vận động đồng bào xây dựng cơ sở tiếp tế khắp các địa bàn.

Tại các huyện phía nam của tỉnh, lực lượng phản động FULRO đã thành lập 5 tiểu đoàn. Phương thức hoạt động của chúng là kết hợp giữa lực lượng bên trong và lực lượng bên ngoài, vừa hoạt động vũ trang, vừa hoạt động chính trị. Chúng thiết lập hệ thống chỉ đạo từ trung ương xuống địa phương với các tiểu khu, chi khu, tiểu đoàn, đại đội, tiểu đội người dân tộc, có một số tên người Kinh, trong đó đa số là bọn phản động đội lốt tôn giáo. Về thủ đoạn hoạt động, lực lượng FULRO chủ trương tập kích các cơ quan chỉ đạo của ta ở cấp huyện, xã, các đơn vị vũ trang, du kích đơn lẻ. Trong các đêm 26, 28, 29 tháng 6 -1975, chúng huy động lực lượng cả bên trong và bên ngoài tập kích vào K uỷ (K1); đặc biệt vào đêm 22-7-1975, bọn phản động FULRO ném lựu đạn vào một cuộc họp dân ở K1.

Trên địa bàn Tuyên Đức gồm các huyện Đức Trọng, Đơn Dương, và thành phố Đà Lạt, lực lượng phản động FULRO cũng đẩy mạnh hoạt động khủng bố cán bộ, cốt cán cách mạng, dụ dỗ lừa bịp quần chúng buộc họ phải tiếp tế lương thực, thực phẩm, che giấu nơi ở, hành lang đi lại và chỉ điểm, cung cấp thông tin phục vụ các hoạt động vũ trang. Chúng lấy địa bàn huyện Đức Trọng làm trọng điểm, lập ra các tổ chức phản động ở Tùng Nghĩa, Định An. Chúng dụ dỗ lôi kéo hàng ngàn thanh niên ra rừng lập chiến đoàn “Đồng khởi” nhằm tập hợp lực lượng chống phá cách mạng. Những hoạt động của lực lượng FULRO đã làm cho tình hình chính trị, an ninh trên địa bàn tỉnh diễn biến vô cùng phức tạp.

Từ cuối tháng 5-1975, lực lượng phản động FULRO liên tiếp tổ chức nhiều cuộc phục kích cán bộ, chặn xe cướp lương thực trên quốc lộ 20 và quốc lộ 27. Ngày 18-5-1975, chúng ra tuyên cáo chống cộng sản và thành lập Nhà nước Đề Ga.

Ngày 5-7-1975, chúng tập kích vào sở chỉ huy tiền phương của tỉnh đội Tuyên Đức (Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh) và một trung đội của đại đội 2, tiểu đoàn 810 đóng tại thôn Tiêng Liêng, xã Kilplanhol Hạ. Đồng chí Nguyễn Văn Thanh, Tỉnh đội trưởng, đồng chí Ma Huy, Phó trưởng ban Tổ chức Khu uỷ Khu VI và gần 20 chiến sĩ của ta hy sinh. Ngày 9-7-1975, chúng tập kích bộ phận tiền phương Tiểu đoàn 810 đóng tại xã Đạ MRông. Đồng chí Nguyễn Mười (Mười Bạc), Tiểu đoàn trưởng và 9 đồng chí khác anh dũng hy sinh. Ngày 14-7-1975, đồng chí Đặng Ngọc Chác, Huyện đội trưởng huyện Đức Trọng trên đường đi công tác bị phục kích tại xóm Chung (Phú Hội) và anh dũng hy sinh. Trước ngày bầu cử Hội đồng nhân dân ba cấp tháng 4-1976, bọn FULRO đã bắt và giết đồng chí Nguyễn Thi, Bí thư chi bộ-Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã NThol Hạ; tập kích vào trụ sở xã Tân Hội và ném lựu đạn vào gia đình một chiến sĩ công an tại xã Tùng Nghĩa.

Chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày giải phóng, bọn phản động đã gây ra nhiều vụ bạo động vũ trang, ám sát cán bộ, bộ đội, cơ sở cốt cán, phục kích trên đường giao thông, xâm nhập phá hoại các nông trường, lâm trường, trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, cơ sở sản xuất gây cho ta một số tổn thất, làm cho tình hình trong tỉnh càng thêm phức tạp.

Xác định rõ âm mưu của tổ chức phản động FULRO, các cấp uỷ Đảng kịp thời có những chủ trương đúng đắn, đẩy mạnh phát động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị, tăng cường lực lượng truy quét FULRO. Các cấp từ tỉnh đến huyện, xã triển khai nhiều đợt học tập, quán triệt sâu rộng trong cán bộ, đảng viên, cán bộ cốt cán ở cơ sở Chỉ thị 64-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khoá IV) về tiếp tục phát động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO; đồng thời tăng cường cán bộ về tận cơ sở làm công tác dân vận, phát động quần chúng, vạch rõ âm mưu, tội ác của bọn FULRO và các tổ chức phản động, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng. Thông qua các đợt học tập, nhận thức của đồng bào được nâng lên, quần chúng đã mạnh dạn cung cấp nhiều thông tin có giá trị và kịp thời phát hiện âm mưu hoạt động chống phá cách mạng của địch.

Phối hợp với công tác tuyên truyền vận động quần chúng, các cấp uỷ Đảng tập trung lãnh đạo nhiệm vụ đẩy mạnh hoạt động vũ trang, bán vũ trang, phối hợp với lực lượng an ninh vừa truy quét bên ngoài, vừa bóc gỡ các tổ chức phản động bên trong, đồng thời củng cố, xây dựng chính quyền và các đoàn thể ở cơ sở. Kết quả hoạt động từ tháng 4 đến 12-1975 ta đã giáng một đòn nặng nề vào bọn phản động FULRO, gây cho chúng tổn thất lớn, tiêu diệt và bắt sống 5.795 tên, trong đó có nhiều tên tướng, tá chỉ huy cấp quân khu, trung đoàn, tiểu đoàn, đẩy lùi và làm thất bại một bước quan trọng âm mưu hoạt động chống phá cách mạng. Chúng phải chuyển qua hoạt động ngầm trên một phạm vi hẹp hơn và lâm vào tình cảnh ngày càng khó khăn. Với kết quả đó góp phần thiết lập lại trật tự an ninh, giữ vững tình hình chính trị-xã hội, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số từng bước ổn định. Nhưng âm mưu và bản chất của lực lượng phản động không thay đổi và chúng vẫn tìm mọi cách khôi phục lại lực lượng, tăng cường mọi thủ đoạn để chống phá cách mạng.

Nhiệm vụ xây dựng và củng cố chính quyền các cấp nhất là ở cơ sở trong điều kiện đầy thử thách và gian khổ, vừa trấn áp lực lượng phản cách mạng ổn định tình hình chính trị-xã hội, vừa tuyên truyền vận động quần chúng từng bước nâng cao ý thức làm chủ, triển khai học tập và thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là các chính sách về kinh tế, ổn định đời sống. Cuối năm 1975, trên phạm vi toàn tỉnh đã có 287/290 ấp; 72/77 xã xây dựng được bộ máy chính quyền với 538 cán bộ ấp, 322 cán bộ xã, trong số đó đã chọn lọc, giáo dục và bồi dưỡng về nhận thức tư tưởng và năng lực công tác.

Nhiệm vụ khôi phục, phát triển kinh tế, với những nỗ lực rất lớn đã góp phần cho sự phát triển cơ sở vật chất-kỹ thuật trong công nghiệp và nông nghiệp. Năng suất lao động tuy có tăng lên nhưng nhìn chung tình hình kinh tế của tỉnh vẫn đang gặp nhiều khó khăn do chiến tranh tàn phá cùng với chính sách thực dân mới của đế quốc Mỹ làm cho cơ cấu của nền kinh tế và phân bố lao động mất cân đối nghiêm trọng.

Sản xuất lương thực, sản lượng quá thấp không đủ tự túc. Bên cạnh đó những khó khăn trong việc thiếu phụ tùng, thay thế sửa chữa máy móc thiết bị trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải. Yêu cầu về phân bón, giống, thuốc trừ sâu phục vụ nông nghiệp, nhu cầu về nhiên liệu, hoá chất thiếu trầm trọng. Về lực lượng lao động, số người không tham gia sản xuất ra của cải vật chất chiếm tỷ lệ rất lớn, mật độ dân số tập trung chủ yếu ở các đô thị, hoạt động trong ngành thương nghiệp chiếm 1/3 dân số (10 vạn người).

Trước tình hình khó khăn về kinh tế, Lâm Đồng chủ trương duy trì và khôi phục các ngành sản xuất chính của địa phương nhất là ngành chè và rau. Cuối năm 1975 có 3.500 ha trên tổng số 5.000 ha chè; 3.000 ha/6.000 ha rau có sản phẩm thu hoạch. Diện tích cà phê khôi phục được 1.000 ha. Diện tích và sản lượng lúa tăng khoảng 10% so với năm 1974. Diện tích ngô tăng gấp 2 lần, đậu tương tăng gấp 3 lần. Đã chuyển 7.000 người từ thành phố về nông thôn sản xuất; tiếp nhận gần 10 ngàn người từ các tỉnh khác đến xây dựng kinh tế mới. Kết quả của việc khôi phục và đẩy mạnh sản xuất đã giải quyết khó khăn về lương thực, không để xảy ra hiện tượng thiếu đói nghiêm trọng.

Trên lĩnh vực lưu thông phân phối, bước đầu hình thành hệ thống tổ chức, chế độ chính sách mới về thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, tiền tệ, giá cả nhằm phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân. Trong cơ cấu kinh tế xuất hiện thành phần kinh tế quốc doanh, tuy rất mới mẻ và nhỏ bé nhưng đã chiếm một vị trí quan trọng và không ngừng được củng cố, phát triển làm tốt vai trò chủ đạo trong lĩnh vực sản xuất cũng như lưu thông phân phối.

Trong cải tạo quan hệ sản xuất mới, bước đầu phát huy quyền làm chủ của người lao động, từng bước giải quyết công ăn việc làm, chăm lo đời sống cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức. Mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trên các lĩnh vực phục vụ nông nghiệp, vấn đề lương thực, tín dụng, giá cả, cung cấp nhiên liệu, hàng tiêu dùng; mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức đoàn thể, về chính sách tiền lương và chế độ lao động từng bước được xây dựng.

Trong điều kiện vừa mới thoát khỏi cuộc chiến tranh ác liệt, lâu dài, yêu cầu cuộc sống đang đòi hỏi nhiều vấn đề, chỉ một thời gian ngắn chưa thể thực hiện đầy đủ các chính sách và giải quyết kịp thời mọi quyền lợi mà quần chúng mong muốn.

Lĩnh vực tư tưởng có một bước chuyển đáng kể về phương pháp, nội dung, phát động quần chúng bằng nhiều hình thức linh hoạt. Qua tuyên truyền, học tập đã tạo điều kiện cho các quan điểm, tư tưởng cách mạng thâm nhập vào suy nghĩ và cuộc sống mọi tầng lớp nhân dân, mọi hoạt động xã hội từng bước đi vào chiều hướng tích cực.

Ngành giáo dục đã cố gắng khôi phục cơ sở vật chất, sắp xếp, tăng cường và tổ chức lại đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên. Bộ máy tổ chức và công tác quản lý tuy còn nhiều hạn chế nhưng với quyết tâm khắc phục khó khăn để đưa nội dung, chương trình giáo dục cách mạng vào các trường học, từng bước xây dựng đội ngũ giáo viên có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nội dung giáo dục trong điều kiện mới.

Hệ thống thông tin văn hoá các cấp triển khai hoạt động. Công tác tuyên truyền, văn nghệ, thu hút hàng chục ngàn người tham gia, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền đường lối, chính sách, động viên phong trào thi đua lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới trong các tầng lớp nhân dân; cổ vũ động viên mọi người vượt qua khó khăn gian khổ, tích cực vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.

Trong điều kiện phải nỗ lực triển khai nhiều mặt công tác nhằm nhanh chóng ổn định tình hình, công tác xây dựng bộ máy chính quyền, đoàn thể các cấp vẫn được chú trọng. Đến cuối năm 1975 hầu hết số cán bộ cơ sở được chọn lọc, bồi dưỡng, một số đoàn thể, ngành được bổ sung cán bộ miền Bắc chi viện. Số hội viên trong các đoàn thể tính đến cuối năm 1975 có 8.150 đoàn viên công đoàn; 14.500 hội viên nông hội; 31.514 hội viên phụ nữ; 601 đoàn viên Đoàn thanh niên lao động Hồ Chí Minh. Sự phát triển về số lượng, củng cố về bộ máy chính quyền, đoàn thể các cấp đánh dấu một bước cố gắng lớn của Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh.

Công tác xây dựng Đảng, đến giữa năm 1975 toàn đảng bộ có 1.566 đảng viên, trong đó có 610 cán bộ cơ sở, 312 cán bộ sơ cấp và 117 cán bộ trung cấp và tương đương. Sau giải phóng một thời gian ngắn các cấp uỷ tỉnh, huyện được kiện toàn theo sự chỉ đạo của Trung ương Cục và Khu uỷ Khu VI ; tổ chức cơ sở Đảng trưởng thành cả về số lượng và nâng cao ý thức chính trị, tư tưởng, giữ vững phẩm chất người cán bộ, đảng viên; phần lớn số cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành đều gương mẫu, hết lòng tận tuỵ với công việc, tạo được uy tín, niềm tin cho quần chúng noi theo, tạo được động lực mạnh mẽ để ngăn chặn và đấu tranh chống lại những hiện tượng xấu trong đời sống xã hội.

Tuy có sự trưởng thành đáng kể, nhưng công tác xây dựng Đảng vẫn chưa theo kịp với bước chuyển biến của giai đoạn cách mạng mới. Tình hình chính trị tư tưởng, tổ chức của Đảng bộ còn nhiều mặt yếu cần phải khắc phục mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ .

Ngày 29-9-1975, Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá III) họp Hội nghị lần thứ 24 và có nghị quyết về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Trên cơ sở phân tích những đặc điểm của nước ta sau sau ngày giải phóng miền Nam, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hội nghị khẳng định: Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam, Hội nghị đề ra là:

Xây dựng chính quyền cách mạng vững mạnh là nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu. Chính quyền ở mỗi cấp thể hiện sự lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ tập thể của nhân dân, phải đủ sức làm nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Công tác trấn áp bọn phản cách mạng phải làm kiên quyết, đúng chính sách và sách lược; kết hợp trấn áp với giáo dục, kết hợp bạo lực với các biện pháp chính trị, kinh tế, văn hoá và tư tưởng.

Xoá bỏ giai cấp tư sản mại bản và các tàn dư của giai cấp địa chủ phong kiến.

Khôi phục và phát triển sản xuất, giải quyết nạn thất nghiệp do chế độ cũ để lại.

Giải quyết tốt các vấn đề lưu thông, tài chính, ngân hàng, tiền tệ. Áp dụng các biện pháp tổ chức và quản lý kinh tế thích hợp nhằm đảm bảo cho sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt, các sinh hoạt kinh tế-xã hội đi vào nề nếp.

Mặt trận văn hoá, tư tưởng là trận địa đấu tranh giai cấp phức tạp và lâu dài, phải có phương pháp đấu tranh đúng đắn, huy động tổng hợp các phương tiện, kết hợp chỉ đạo đấu tranh tập trung thành từng đợt với công tác giáo dục thường xuyên, khôi phục và phát triển nhanh giáo dục phổ thông, cải tạo giáo dục đại học theo quy hoạch chung của cả nước, tổ chức phong trào bình dân học vụ rộng khắp nhằm xoá nạn mù chữ. Xây dựng và phát triển y tế; phát triển nhà trẻ, lớp mẫu giáo, công tác bảo vệ bà mẹ trẻ em, công tác tuyên truyền sinh đẻ có kế hoạch.

Đẩy mạnh phong trào cách mạng trong quần chúng thông qua phong trào quần chúng mà xây dựng các tổ chức từ tỉnh, thành đến cơ sở: tổ công đoàn, đoàn thanh niên, nông hội, phụ nữ, mặt trận..., nhằm thu hút đông đảo quần chúng vào sinh hoạt tập thể.

Tăng cường công tác xây dựng Đảng vững mạnh, bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Trước hết phải nâng cao năng lực lãnh đạo thực hiện đường lối, chính sách, năng lực tổ chức thực hiện của các đảng bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị.

Quán triệt tinh thần nghị quyết 24 của Ban chấp hành Trung ương đảng, từ ngày 23-2 đến 1-3-1976, Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng tổ chức Hội nghị lần thứ nhất bàn về nhiệm vụ và công tác của tỉnh trong thời gian tiếp theo.

Căn cứ vào tình hình các mặt của địa phương, hội nghị đã phân tích những thuận lợi, khó khăn nổi bật có ảnh hưởng trực tiếp đến phong trào. Với thắng lợi trọn vẹn triệt để của cách mạng giành độc lập dân tộc đã có tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến tình hình chính trị chung, an ninh chính trị, trật tự xã hội từng bước ổn định, các tổ chức phản động tuy vẫn còn tồn tại nhưng hoạt động dè dặt, hàng ngũ bị phân hoá, lực lượng FULRO bị ta tiêu diệt với nhiều tổn thất phải lùi vào vùng xa. Hệ thống chính quyền, đoàn thể được xây dựng, củng cố tương đối đều khắp từ tỉnh, huyện đến cơ sở, hoạt động đi dần vào nề nếp và vững chắc hơn.

Qua tuyên truyền, phát động và giáo dục của chính quyền, đoàn thể, phần lớn quần chúng đã nâng cao giác ngộ chính trị, ý thức cách mạng, tích cực tham gia các phong trào. Đó là những yếu tố rất cơ bản của nhiệm vụ xây dựng và kiện toàn hệ thống chuyên chính cách mạng, đảm bảo cho nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Tài nguyên và điều kiện tự nhiên của tỉnh tương đối phong phú. Với các thế mạnh về nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, tỉnh có khả năng sớm đưa nền sản xuất tại địa phương đi lên sản xuất lớn, gồm các thành phần, trong đó thành phần kinh tế quốc doanh có điều kiện đẩy nhanh, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế chung của địa phương. Việc tiếp quản các cơ sở kinh tế, vật chất-kỹ thuật tiến hành đồng bộ và thu được kết quả tốt. Tài sản, cơ sở vật chất trong tỉnh hầu như được giữ gìn nguyên vẹn và việc quản lý, sử dụng bước đầu có hiệu quả. Trước sự biến đổi của tình hình, việc khôi phục các ngành sản xuất quan trọng đã bảo đảm cho đời sống nhân dân không bị biến động lớn. Một số lĩnh vực như sản xuất lương thực, thực phẩm, văn hoá, giáo dục, y tế có sự phát triển tạo cơ sở ban đầu và là kinh nghiệm tốt để đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng và phát triển kinh tế-văn hoá, xã hội của tỉnh.

Qua thực tiễn, các tổ chức Đảng được kiện toàn một bước. Số lượng và chất lượng cán bộ, đảng viên tăng lên rõ rệt. Tính chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng bộ thể hiện sự kiên định về lập trường quan điểm, ý chí cách mạng, khả năng tuyên truyền đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, tạo cho quần chúng niềm tin vào Đảng, vào chế độ mới.

Trên cơ sở nhận định đánh giá về tình hình thuận lợi, khó khăn của địa phương, Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành lâm thời của Đảng bộ tỉnh đề ra phương hướng và nhiệm vụ: Toàn Đảng bộ phải đề cao cảnh giác, phải xây dựng và củng cố vững chắc công cụ chuyên chính của mình, kiên quyết trấn áp lực lượng phản cách mạng, đặc biệt là coi trọng công tác phát động quần chúng, trên cơ sở nâng cao giác ngộ giai cấp và ý thức làm chủ của họ mà từng bước củng cố hệ thống chuyên chính cách mạng (trước hết là ở cơ sở, vùng dân tộc, tôn giáo) dựa vào đó mà củng cố an ninh trật tự, đồng thời động viên cao trào lao động sản xuất, tham gia khôi phục phát triển kinh tế, văn hoá, tăng cường khối liên minh công nông, tăng cường đoàn kết các dân tộc, lấy vấn đề đẩy mạnh sản xuất, chăm lo đời sống nhân dân làm nhiệm vụ trung tâm, phát động tư tưởng cách mạng của quần chúng và xây dựng nội bộ là then chốt để tạo ra sự chuyển biến mới về mọi mặt nhằm thực hiện tốt Nghị quyết 24 của Trung ương.

Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: Lâm Đồng muốn xây dựng một nền kinh tế toàn diện, vững chắc thì phải biết khai thác những thuận lợi về tài nguyên và điều kiện thiên nhiên ưu ái, biết phát huy thế mạnh sẵn có về cây công nghiệp đặc sản, về chăn nuôi và lâm nghiệp, lấy đó làm phương hướng chính trong sản xuất và kinh doanh, đồng thời đẩy mạnh sản xuất lương thực, kinh doanh du lịch, kết hợp các lĩnh vực đó với nhau để tạo tiền đề cho mục tiêu tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Các biện pháp để thực hiện chỉ tiêu đề ra: đẩy mạnh khai hoang, phục hoá, hình thành vùng kinh tế mới ở các trọng điểm lương thực. Công tác thuỷ lợi, phương hướng lâu dài là thuỷ lợi hoá toàn bộ diện tích cây lương thực, hoa màu và cây công nghiệp, trước mắt là giải quyết đủ nước tưới cho 7.000 ha ruộng nước, biến đất một vụ thành hai vụ. Trong thuỷ lợi cần huy động sức dân, lấy thuỷ nông là chính.

Vận dụng linh hoạt các hình thức trong việc thu mua, chế biến lương thực, thực phẩm, chè, cà phê, rau và lâm sản.

Về chăn nuôi, chú trọng phát triển đàn trâu, bò ở vùng trọng điểm cây lương thực và cây công nghiệp nhằm giải quyết sức kéo và tăng nguồn phân bón; khắc phục những khó khăn về giống và thức ăn để phục hồi các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm trong nhân dân cũng như những cơ sở quốc doanh.

Đối với lâm nghiệp cần có quy hoạch và kế hoạch cụ thể cho việc khai thác gỗ theo chỉ tiêu năm 1976, vừa bảo đảm cho yêu cầu xây dựng của địa phương, vừa ưu tiên cho xuất khẩu; tiến hành việc trồng rừng ở khu vực quanh và nội thành Đà Lạt.

Chú trọng ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, có biện pháp quản lý tốt các cơ sở cơ khí sửa chữa , đồng thời khai thác mọi khả năng vật chất kỹ thuật hiện có của địa phương, phấn đấu sản xuất được các loại phụ tùng và máy móc giản đơn phục vụ cho nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và giao thông vận tải, quản lý các xưởng, công ty tư nhân sản xuất hàng tiêu dùng.

Về thương nghiệp, với chủ trương đẩy mạnh lưu thông hàng hoá, tích cực giao dịch hàng hoá với Trung ương và các tỉnh bạn, tổ chức mạng lưới bán buôn của nhân dân vùng thị trấn, thị tứ và vùng kinh tế mới. Tổ chức các cửa hàng bán lẻ đến tận nông thôn, vùng căn cứ cũ nhằm phục vụ kịp thời đời sống nhân dân, tiêu thụ sản phẩm, cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho đồng bào dân tộc, chống đầu cơ lũng đoạn thị trường.

Ngành tài chính ra sức tăng thu, giảm chi và triệt để tiết kiệm chi để tích luỹ cho ngân sách, tạo vốn để đầu tư cho việc khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Trước hết là nhằm đầu tư vốn để phát triển nông nghiệp nhằm tăng sản lượng lương thực và thực phẩm, giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Tăng cường quản lý tài chính, đưa mọi hoạt động tài chính vào nề nếp, bảo đảm nguyên tắc và chế độ.

Về lĩnh vực văn hoá-xã hội, giáo dục, y tế, Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng chủ trương kiên quyết đấu tranh, đẩy lùi và xoá bỏ tàn dư văn hoá, tư tưởng phản động của chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Giáo dục truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần làm chủ tập thể, yêu lao động, góp phần xây dựng hệ tư tưởng mới và phẩm chất đạo đức con người mới cho tầng lớp thanh niên, sinh viên, học sinh. Sử dụng rộng rãi báo chí cách mạng, phát thanh, văn nghệ, chiếu bóng phục vụ cho đồng bào, nhất là vùng nông thôn, vùng kinh tế mới, đồng bào dân tộc ít người. Phát triển phong trào thể dục-thể thao, xây dựng đời sống mới trong các thị trấn, thị xã. Về giáo dục, tiếp tục hoàn thành chương trình thanh toán nạn mù chữ và phát triển bổ túc văn hoá, khôi phục và phát triển giáo dục phổ thông vùng dân tộc ít người, vùng định canh, định cư, vùng kinh tế mới. Chăm lo sức khoẻ nhân dân, củng cố các bệnh viện đang sử dụng, xây dựng mạng lưới điều trị từ tỉnh xuống huyện, nhất là các trạm xá xã vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng kinh tế mới, phát động phong trào vệ sinh phòng bệnh, tuyên truyền vận động sinh đẻ có kế hoạch, v.v...

Công tác xây dựng Đảng, Nghị quyết chỉ rõ: Nhiệm vụ cấp bách của công tác xây dựng Đảng là xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh, nâng cao nhận thức tư tưởng, trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Sửa đổi lối làm việc của từng cấp, từng bộ phận và từng người, tích cực đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng. Trước mắt là quán triệt các Nghị quyết 23, 24 của Trung ương Đảng, của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Tỉnh uỷ; chấn chỉnh lề lối làm việc của các cấp, các ngành, từng bước xây dựng cấp tỉnh, kiện toàn cấp huyện và khẩn trương xây dựng bộ máy cơ sở. Thực hiện đúng nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, tránh bao biện làm thay; tăng cường đảng viên có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt cho cấp huyện, bảo đảm cho huyện có đủ khả năng lãnh đạo cả chính trị, kinh tế và an ninh, quốc phòng; tích cực phát triển đảng viên mới, xử lý những trường hợp vi phạm kỷ luật Đảng, bồi dưỡng hạt nhân lãnh đạo ở cấp cơ sở bảo đảm yêu cầu trong sạch, vững mạnh.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất, qua hơn một năm (4-1975 đến 8-1976) phong trào trong tỉnh từng bước chuyển biến tiến bộ và đạt được những kết quả đáng phấn khởi

Công tác truy quét, trấn áp các tổ chức phản cách mạng, xây dựng trật tự trị an, đã tổ chức đăng ký trình diện cho 31.829 nguỵ quân, nguỵ quyền. Hầu hết số người này được học tập cải tạo, phần đông có tiến bộ và được trở về sum họp với gia đình, có 24.180 người được khôi phục quyền công dân (bằng 75%), số còn lại giao cho địa phương và gia đình quản lý. 

Qua công tác đấu tranh, giáo dục đã ngăn chặn kịp thời các âm mưu bạo loạn của bọn phản động, phân hoá nội bộ chúng, số đông có chiều hướng tiến bộ trở về với cuộc sống lương thiện. Riêng một số đối tượng ngoan cố, phản động thì số ít đã ra trình diện, số còn lại hoặc chạy đi nơi khác, hoặc ở lại địa phương có ý đồ hoạt động lén lút, móc nối với các tổ chức phản động khác ở Sài Gòn, Nha Trang, tham gia vào các tổ chức chính trị phản động như tổ chức “Dân quân phục quốc”, tổ chức “Thanh niên bảo vệ đạo”, tổ chức “Thanh niên hùng tâm dũng chí”, thành phần trong các tổ chức đó gồm có bọn nguỵ quân, nguỵ quyền ngoan cố không chịu học tập cải tạo, bọn phản động trong các tôn giáo và một số tên lưu manh côn đồ.

Đối với lực lượng phản động FULRO vào thời điểm đầu năm 1976, hoạt động của ta đã có sự kết hợp giữa việc truy quét ở tuyến ngoài với các cuộc vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ tập thể trong các xã, ấp. Phần lớn quần chúng nhân dân thấy được bản chất phản động của tổ chức FULRO, từ đó tích cực giúp đỡ, phối hợp với lực lượng vũ trang phát hiện, truy quét, đẩy chúng lâm vào tình trạng khó khăn hơn, hàng ngũ càng bị phân hoá, tư tưởng dao động lo lắng, tổ chức chỉ huy suy yếu, không đủ sức để tập hợp lực lượng và hoạt động trên phạm vi rộng như trước nữa. Kết quả truy quét ta đã loại gần 5.000 tên, trong đó có nhiều tên là tướng, tá chỉ huy cấp quân khu, tiểu khu, sư đoàn, trung đoàn.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc truy quét vẫn còn một số thiếu sót cần phải khắc phục. Thời gian đầu ta còn nặng về biện pháp đấu tranh quân sự, nhẹ công tác chính trị, địch vận, phát động giáo dục quần chúng, nhất là quần chúng người dân tộc ít người, công tác truy kích địch thiếu chặt chẽ, chưa thường xuyên, đánh địch có lúc chưa trúng, hiệu quả thấp. Các công tác giam giữ, xét xử, cải tạo làm chưa tốt, chưa kết hợp được với nhau; công tác điều tra, phát hiện về tổ chức và âm mưu hoạt động bí mật của địch ít hiệu quả, chưa phát huy được vai trò của địa phương và quần chúng, có nhiều trường hợp vi phạm chính sách, vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân.

Công tác phát động quần chúng, xây dựng chính quyền và đoàn thể cách mạng được Đảng bộ chú trọng, liên tiếp mở nhiều đợt phát động quần chúng, giác ngộ cách mạng, từ phát động rộng rãi trong mọi tầng lớp, đến phát động riêng cho từng giới, từng lứa tuổi, từng ngành nghề, đặc biệt chú trọng phát động quần chúng lao động. Nội dung phát động là gắn chặt hai vấn đề giai cấp và dân tộc với yêu cầu là tạo cho quần chúng từng bước giác ngộ, từ đó tổ chức phong trào cách mạng một cách tự giác. Đặc biệt từ giữa tháng 3-1976, Đảng bộ Lâm Đồng có chủ trương mở cuộc phát động trong quần chúng lao động với nội dung thực hiện quyền làm chủ tập thể, hăng hái tham gia quản lý xã hội, xây dựng cuộc sống mới.

Qua thực tế của phong trào, các đoàn thể quần chúng đã trưởng thành một bước về ý thức chính trị và tổ chức. Công tác phát triển hội viên của các đoàn thể thu được kết quả khá, nhất là tổ chức phụ nữ, thanh niên và nông hội. Tính đến cuối tháng 7-1976 toàn tỉnh có: 1.647 đoàn viên và 179 chi đoàn thanh niên lao động Hồ Chí Minh, 18.287 hội viên thanh niên giải phóng; 9.200 đội viên thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh; 17.800 hội viên phụ nữ; 1.560 đoàn viên công đoàn trong 58 tổ chức công đoàn cơ sở. Tính chung có gần 48.500 hội viên, đoàn viên trong các đoàn thể quần chúng, chưa kể hàng vạn người được tập hợp trong các tổ chức rộng rãi của hội phụ nữ và các hội công nhân lao động.

Tuy vậy, quá trình phát động quần chúng, có những nơi, những thời điểm Đảng bộ làm chưa tốt, chỉ đạo chưa chặt chẽ, thiếu sâu sát cụ thể, chưa chú trọng công tác xây dựng, củng cố tổ chức, bồi dưỡng cốt cán, do đó hạn chế đến việc duy trì phong trào. Nguyên nhân của những thiếu sót đó là do một số cán bộ chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác phát động quần chúng và xây dựng củng cố tổ chức cơ sở trong tình hình mới.

Công tác khôi phục, phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân có bước chuyển biến, tính đến tháng 8-1976, diện tích và sản lượng nông nghiệp tăng gấp hai lần năm 1975. Chủ trương triển khai sớm việc khai hoang, phục hoá, giãn dân thành thị ra nông thôn sản xuất, định canh, định cư cho đồng bào dân tộc ít người được hưởng ứng và thu kết quả tốt. Cuối năm 1976 tăng thêm 5.600 ha đất canh tác (bằng 14,5% diện tích canh tác toàn tỉnh). Trên các vùng mới phục hoá, khai hoang đã tổ chức định canh, định cư cho 18.284 đồng bào dân tộc và 17.967 người Kinh, hình thành một số khu kinh tế mới, trong đó có những khu vực đã tạm ổn định thế ăn, ở và đã thu hoạch vụ sản xuất đầu tiên.

Thực hiện nhiệm vụ vận động các phong trào làm thuỷ lợi, làm phân xanh, phân chuồng, dùng trâu bò làm sức kéo, trong một thời gian ngắn nhân dân đã tham gia trên hai vạn ngày công nạo vét kênh mương với chiếu dài 12 km; cùng với Nhà nước hỗ trợ vốn tu bổ và nâng cấp 7 công trình thuỷ lợi đạt khối lượng đất đào đắp trên 57.600 m3.. Với kết quả đó một số diện tích đất sản xuất đã canh tác được hai vụ.

Từng bước tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, đưa nông dân vào làm ăn tập thể, củng cố và phát triển phong trào vần đổi công, hợp tác lao động. Đến tháng 12-1975 vùng kinh tế mới tiếp nhận 10.000 dân của tỉnh Quảng Ngãi vào thành lập xã Lộc Ngãi và thành lập các thôn Sơn Tịnh, Bình Sơn ở Bảo Lộc.

Ngành lâm nghiệp tiến hành khảo sát, lập quy hoạch, khoanh vùng rừng để bảo vệ, khai thác. Thành lập công ty lâm sản, hình thành mạng lưới kiểm lâm nhân dân; khôi phục và củng cố các cơ sở nghiên cứu và các cơ sở ươm cây giống; phát động phong trào bảo vệ rừng, trồng rừng, hạn chế được một phần nạn khai thác và phá rừng bừa bãi.

Về lĩnh vực công nghiệp, trong thời gian ngắn đã khôi phục và duy trì hoạt động các ngành quan trọng như điện, nước, các nhà máy chế biến trà, các cơ sở sửa chữa cơ khí để phục vụ cho sản xuất và đời sống nhân dân, tiếp theo là khôi phục các cơ sở khai thác đá, cao lanh, sản xuất đồ sứ, vật liệu xây dựng, phân bón, thuốc trừ sâu, chế biến thức ăn gia súc, các nghề thủ công mỹ nghệ ở Đà Lạt với kết quả đó đã tăng thêm nguồn hàng hoá phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, tăng nguồn hàng xuất khẩu và giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động.

Các ngành xây dựng cơ bản, giao thông vận tải đã phục vụ tích cực cho sản xuất và đời sống, nhất là sản xuất nông nghiệp như việc xây dựng các trạm nghiên cứu, trại giống, công trình thuỷ lợi, đường vào các khu kinh tế mới, khu định cư.

Các ngành thương nghiệp và vật tư đã hình thành và củng cố mạng lưới thương nghiệp quốc doanh, cải tiến cách phân phối nhằm đưa hàng đến tận tay người tiêu dùng, phục vụ cho sản xuất, ổn định đời sống nhân dân và ổn định thị trường, giá cả.

Hoạt động của các ngành tài chính, ngân hàng từng bước đi vào nề nếp, cố gắng tăng thu và thực hiện việc chi tiêu đúng phương hướng, đúng chế độ, phối hợp với các ngành hữu quan tiến hành kiểm tra, thanh tra tài chính, phát hiện một số vụ tham ô, vi phạm tài sản Nhà nước. Ngành ngân hàng bố trí một số tổ giao dịch xuống các xã, ấp, khu phố để triển khai công tác tín dụng, phục vụ sản xuất, vận động tiền gửi tiết kiệm.

Qua hơn một năm thực hiện nhiệm vụ khôi phục, phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, các ngành đã cố gắng khắc phục khó khăn nhằm từng bước đáp ứng với yêu cầu của giai đoạn mới và đạt được những kết quả tốt. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khuyết, nhược điểm như chưa vận dụng sát hợp những quan điểm, đường lối về nhiệm vụ kinh tế của Đảng trong giai đoạn mới; hoạt động giữa các ngành chưa có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ hướng vào mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế; phổ biến là hoạt động chuyên môn đơn thuần, chú trọng khu vực quốc doanh, coi nhẹ các thành phần kinh tế khác, chưa khai thác hết khả năng đóng góp trong nhân dân.

Ngành giáo dục đã khôi phục và phát triển tương đối nhanh. Riêng hệ giáo dục phổ thông đã đáp ứng yêu cầu về số lượng trường, lớp và số học sinh. Nội dung và phương pháp giảng dạy có bước chuyển biến theo tình hình mới. Công tác bổ túc văn hoá, bình dân học vụ cũng đạt được những kết quả bước đầu. Đội ngũ giáo viên các cấp qua các đợt bồi dưỡng, tập huấn về chính trị, nghiệp vụ hầu hết có chuyển biến tiến bộ.

Lĩnh vực y tế đã tiếp quản và duy trì các tuyến điều trị tiếp tục phục vụ nhân dân, phát triển thêm 70 cơ sở y tế xã (trong tổng số 72 xã và khu phố) với 1.130 giường bệnh trong hệ thống điều trị từ tỉnh đến cơ sở, đẩy mạnh công tác khám và chữa bệnh cho nhân dân, ngăn chặn kịp thời một số vụ dịch nguy hiểm. ngành y tế vẫn còn khuyết điểm như chất lượng điều trị chưa cao, chưa gây được phong trào vệ sinh phòng bệnh trong nhân dân.

Công tác xây dựng Đảng được chú trọng, Đảng bộ tiếp tục quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 16 của Trung ương Cục, các Nghị quyết 23, 24 của Trung ương Đảng, Chỉ thị 229 của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Tỉnh uỷ về công tác xây dựng Đảng, tạo cơ sở cho cán bộ, đảng viên, cấp uỷ các cấp, các ngành nhận thức đầy đủ hơn tình hình nhiệm vụ mới; tạo được sự nhất trí cao với đường lối của Đảng, củng cố về lập trường quan điểm, ý chí chiến đấu, tinh thần trách nhiệm, tác phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Hầu hết cán bộ, đảng viên luôn giữ được lối sống giản dị, gương mẫu tận tuỵ với công việc, chịu khó chịu khổ, tiếp tục chiến đấu và công tác, hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Trong công tác tổ chức, Đảng bộ Lâm Đồng chú trọng chỉ đạo việc xây dựng và củng cố tổ chức Đảng từ tỉnh đến cơ sở, phát triển đảng viên mới. Từ sau giải phóng đến tháng 8-1976 phát triển thêm 51 đảng viên mới (gồm 13 đảng viên tại chỗ, 38 đảng viên trong lực lượng thoát ly), phục hồi Đảng cho 15 đảng viên. Tổng số đảng viên tính đến tháng 8-1976 là 3.267 đồng chí (trong đó có 317 đồng chí là nữ, 670 đảng viên người dân tộc thiểu số, 203 đảng viên dự bị); có 225 chi bộ, trong đó có 54/72 xã, khu phố có chi bộ; 117/347 thôn có cơ sở đảng (có 30 thôn có chi bộ). Công tác phát triển Đảng đã tiến hành một cách thận trọng, chặt chẽ, đúng nguyên tắc không xảy ra sai sót đáng tiếc.

Tuy vậy, công tác xây dựng Đảng còn một số hạn chế như sinh hoạt chi bộ chưa đều, chưa đi vào nề nếp, chất lượng sinh hoạt không cao, chưa phát huy được vai trò lãnh đạo, nhất là trong việc giáo dục chính trị, tư tưởng. Các chi bộ ở cơ sở tỷ lệ đảng viên trẻ, đảng viên nữ, đảng viên tại chỗ thấp nên việc thâm nhập vào phong trào quần chúng chưa sâu sát, chưa thể hiện được hạt nhân lãnh đạo của Đảng ở cơ sở.

Bộ máy các cấp trong tỉnh được kiện toàn một bước. Ở cấp tỉnh, sau ngày giải phóng do việc giải thể khu, sáp nhập tỉnh trong một thời gian ngắn thay đổi nhiều lần nên đến đầu tháng 2-1976, bộ máy cấp tỉnh mới chính thức hình thành. Sau một thời gian ngắn tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, quân sự đều được củng cố và đi vào hoạt động có nề nếp, đã có 23 ty và phòng trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh.

Bộ máy cấp huyện được tăng cường về số lượng và chất lượng, đã tiến hành chỉ đạo nhiệm vụ trung tâm là tổ chức quản lý kinh tế. Tuy vậy, bộ máy cấp huyện còn thiếu và yếu, một số ngành chưa phát huy được tác dụng, chưa đủ sức tham mưu cho cấp uỷ, nhất là trong công tác tổ chức quản lý kinh tế.

Ở cấp cơ sở, qua các đợt phát động quần chúng đã hình thành và củng cố một bước bộ máy xã, ấp, khu phố, trong đó chú trọng bộ máy chính quyền, các đoàn thể quần chúng, lực lượng an ninh, dân quân tự vệ.

Công tác cán bộ tính đến tháng 8-1976, toàn tỉnh có 823 cán bộ đảng (gồm 5 cán bộ cao cấp, 70 cán bộ trung cấp, 295 cán bộ sơ cấp, 473 cán bộ cơ sở); có gần 3.000 cán bộ nhân viên chuyên môn kỹ thuật. Công tác cán bộ tập trung vào việc bồi dưỡng, sắp xếp, giải quyết chính sách, chế độ tiền lương, riêng việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở kết hợp với phát động quần chúng đã đào tạo được hàng ngàn cốt cán mới, trong đó có một số được lựa chọn đưa vào bộ máy chính quyền, đoàn thể.

Dưới ánh sáng các Nghị quyết của Trung ương Đảng, Trung ương Cục và Ban đại diện, trong 2 năm 1975-1976 Tỉnh uỷ Lâm Đồng đã phát huy nỗ lực chủ quan, triển khai nghiên cứu và thực hiện đường lối chủ trương của Đảng trong giai đoạn mới để vận dụng vào điều kiện cụ thể của địa phương, động viên toàn thể Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng củng cố chính quyền cách mạng, phát triển kinh tế, ổn định đời sống và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Để tiếp tục chỉ đạo các phong trào địa phương, từ ngày 21 đến 30-8-1976, Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng tổ chức hội nghị lần thứ hai. Sau khi đánh giá tình hình cụ thể, Hội nghị ra Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ năm 1976-1977: động viên toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân, quán triệt hơn nữa Nghị quyết 24 của Trung ương, Nghị quyết của Bộ Chính trị, các quan điểm lớn của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, dấy lên một khí thế mới và liên tục trong phong trào lao động sản xuất và cần kiệm xây dựng từ nông thôn đến thành thị, tập trung mọi cố gắng, khẩn trương đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế và văn hoá. Nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng bộ là nhằm tăng thêm sản phẩm, hàng hoá để vừa đáp ứng những nhu cầu bức thiết về đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, vừa tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật cho nền kinh tế địa phương. Trong quá trình đó gắn liền với từng bước tổ chức lại sản xuất theo hướng từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đồng thời dựa vào phong trào cách mạng của quần chúng, nhanh chóng xây dựng và củng cố hệ thống chuyên chính vô sản, nhất là hệ thống chính quyền nhân dân các cấp, phát huy mạnh mẽ và tôn trọng thật sự quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiếp tục tăng cường công tác quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội, bảo đảm vững chắc công cuộc xây dựng; góp phần cùng cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Trước hết là tập trung giải quyết vấn đề lương thực và thực phẩm bảo đảm ổn định lương thực cho địa phương. Đồng thời tiến hành quy hoạch, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn của các loại cây đặc sản, cây công nghiệp và chăn nuôi, phát triển mạnh nghề rừng. Trong khi tập trung sức phấn đấu để đạt các mục tiêu chính trong sản xuất kinh doanh cần phát huy tính đa dạng của nông nghiệp để nhanh chóng tạo nguồn tích luỹ góp phần xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho kinh tế tỉnh nhà.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ lần thứ hai, trong năm 1976, các cấp uỷ Đảng đã lãnh đạo phong trào thi đua lao động sản xuất trong tất cả các ngành, các địa phương đạt được nhiều thành tích đáng kể.

Về sản xuất nông nghiệp, diện tích gieo trồng các loại cây lương thực năm 1976 tăng lên 33.274 ha, đạt 137% kế hoạch năm, so với năm 1975 đạt 196% và tăng gấp 3 lần diện tích sản xuất lương thực năm cao nhất dưới thời Mỹ-nguỵ (1971). Năng suất lúa bình quân đạt 2,28 tấn/ha, tổng sản lượng lương thực là 1.716 tấn. Dự kiến tổng sản lượng lương thực đạt khoảng 43.600 tấn quy thóc (có gần 60% là màu các loại) đạt 99,5% kế hoạch năm 1976 và tăng 2,5 lần so với năm 1975. Kết quả tuy còn thấp nhưng đã củng cố và tăng thêm lòng tin của nhân dân vào các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Cây công nghiệp ngắn ngày năm 1976 trồng 1.681 ha, đạt 168% kế hoạch năm. Rau các loại 5.444 ha, đạt 93% kế hoạch năm; đậu các loại 471 ha, đạt 94% kế hoạch năm. Điều đáng chú ý là trong 4 tháng cuối năm 1976, ngành thương nghiệp Lâm Đồng đã tiến hành quản lý thu mua rau và tiêu thụ được 17.580 tấn, doanh thu đạt gần 4.500.000đ.

Công tác khai hoang, phục hoá, định canh, định cư, xây dựng vùng kinh tế mới đạt khá. Năm 1976 đã phục hoá 4.315 ha, khai hoang gần 5.580 ha và đưa vào sản xuất trên 4.500 ha, diện tích khai hoang, phục hoá tăng gấp 3 lần chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tổ chức định canh, định cư cho 18.000 đồng bào dân tộc, giãn dân được 12.000 người đến các điểm kinh tế. Nửa cuối năm 1976, các khu định canh, định cư, di giãn dân đã từng bước củng cố, xây dựng chính quyền, các đoàn thể quần chúng, xây dựng một số công trình công cộng phục vụ đời sống nhân dân, nhiều nơi đã có sản phẩm thu hoạch góp phần ổn định đời sống. Trong năm 1976 có 3.000 lao động của thành phố Hà Nội, tỉnh Hà Sơn Bình vào xây dựng kinh tế mới ở Nam Ban (Đức Trọng) và vùng Ba (Bảo Lộc).

Chăn nuôi gia súc, gia cầm năm 1976 đang trên đà phát triển, với tổng đàn gia súc gồm: trâu: 7.454 con, so với kế hoạch đạt 143%; bò có 11.470 con, so với năm 1975 tăng 23% và so với kế hoạch đạt 104%; lợn có 30.317 con, so với kế hoạch đạt 65%.

Nhìn chung về nông nghiệp, năm 1976 có bước phát triển tốt, diện tích gieo trồng năm 1976 đạt 48.920 ha, vượt 17% kế hoạch năm, so với năm 1975 tăng gần 2 lần. Diện tích cây trồng, nhất là cây lương thực tăng nhanh.Việc khai hoang phục hoá, định canh, định cư đạt được những kết quả bước đầu. Lao động sản xuất trở thành phong trào rộng rãi, tiến hành quy hoạch tổng thể nông-lâm nghiệp và rút ra được nhiều bài học, kinh nghiệm quý.

Với phương châm thuỷ lợi nhỏ là chính, công tác thuỷ lợi năm 1976 đã hoàn thành khôi phục 7 công trình thuỷ lợi do vốn Nhà nước đầu tư, khối lượng đất đào đắp 134.503 m3, phục vụ tưới tiêu cho 1.052 ha; đào đắp 19 kênh mương với tổng chiều dài 71 km; đắp 5 đập dâng nước phục vụ nước tưới cho 756 ha đồng ruộng, tổng khối lượng đất đào đắp là 153.504 m3 , 66.750 ngày công. Thuỷ lợi trở thành phong trào của toàn dân, các thôn, xã, khu phố đều ra quân làm thuỷ lợi. Chỉ tính riêng trong hai tháng 11 và 12 năm 1976 có hơn 3 vạn người tham gia làm thuỷ lợi và đào đắp được hơn 6 vạn m3 đất để đắp đập lấy nước phục vụ sản xuất vụ Đông-Xuân.

Về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, Đảng bộ Lâm Đồng xác định mục tiêu phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là phục vụ đắc lực cho các ngành kinh tế địa phương, trước hết là cho nông nghiệp, lâm nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng cơ bản, giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân. Phương hướng phát triển công nghiệp của tỉnh là tích cực xây dựng các xí nghiệp, công nghiệp quốc doanh, đồng thời khôi phục các cơ sở công nghiệp tư nhân sản xuất những mặt hàng cần thiết cho quốc kế dân sinh, lấy công nghiệp quốc doanh làm chủ đạo, hướng dẫn các cơ sở công nghiệp tư nhân sản xuất theo hướng đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế địa phương.

Tuy ngành công nghiệp của Lâm Đồng còn nhỏ bé, phân tán và chủ yếu là công nghiệp chế biến nhưng trong năm 1976 đã có những cố gắng vươn lên để duy trì và phát triển sản xuất, đạt được một số kết quả: Nhà máy nước sản xuất được 2.577.000 m3, đạt 93% kế hoạch năm; sành sứ sản xuất được 1.606.000 sản phẩm, đạt 86% kế hoạch năm; đất cao lanh sản xuất được 1.280 m3, đạt 43% kế hoạch năm.

Trong xây dựng cơ bản, đã hoàn thành việc khôi phục nhà máy rượu hoa quả quốc doanh Lapharô với công suất 500.000 lít/năm; mở rộng xí nghiệp khai thác cao lanh; xây dựng xưởng cơ khí ở huyện Đơn Dương, Đà Lạt, Đức Trọng; xí nghiệp phân bón ở Bảo Lộc với công suất 10 tấn/ngày.

Thủ công nghiệp từng bước được phục hồi. Thành phố Đà Lạt có tổ thủ công mỹ nghệ với hơn 40 công nhân; tổ thêu đan xuất khẩu 126 người và có 200 người đang theo học lớp dạy thêu xuất khẩu.

Về lâm nghiệp, chủ trương của Đảng bộ Lâm Đồng đề ra: Phát huy thế mạnh của nền kinh tế lâm nghiệp, trước mắt là tiến hành điều tra cơ bản, quy hoạch và phân vùng rừng, tạo cơ sở cho việc xây dựng phương hướng sản xuất hoàn chỉnh, sát đúng và kinh doanh có hiệu quả nhất.

Được sự giúp đỡ của Trung ương, năm 1976, Lâm Đồng tiến hành quy hoạch tổng thể vùng nông-lâm nghiệp, sơ bộ đánh giá tiềm năng của rừng, phân khu rừng khai thác, rừng phòng hộ và rừng trồng mới; tiến hành khoanh trên 30.000 ha rừng nuôi để bảo vệ nước đầu nguồn của các sông Đa Nhim, Đồng Nai, La Ngà và vùng rừng có nhiều gỗ quý; làm gần 500 km đường ranh cản lửa ở khu vực rừng thông xung quanh Đà Lạt và rừng đầu nguồn sông Đa Nhim.

Việc kiểm soát lâm sản được chú trọng bằng việc thành lập mạng lưới kiểm lâm nhân dân gồm có 200 người do đó đã ngăn chặn hiệu quả nạn phá rừng, chặt cây, đốt than bừa bãi và chuyên chở lâm sản trái phép. Đồng thời, đẩy mạnh việc học tập pháp lệnh bảo vệ rừng trong nhân dân. Các cơ sở ươm cây giống ở Suối Vàng, Đa Thiện (Đà Lạt), Lang Hanh (Di Linh) và Bảo Lộc ngày càng được củng cố, mở rộng. Năm 1976 đã gieo ươm được 5 triệu cây và tiến hành gieo 15 triệu cây để phục vụ kế hoạch trồng rừng năm 1977, trồng mới được 25 ha rừng, đạt 104% kế hoạch năm 1976, tỷ lệ cây sống khoảng 90%, ngoài ra còn phát động phong trào trồng cây trong các tầng lớp nhân dân. Riêng ở Đà Lạt trồng được 200.000 cây trên các đồi xung quanh thành phố. Gỗ chế biến được 14.207 m3, đạt 141% kế hoạch năm, tổng doanh thu về lâm nghiệp năm 1976 đạt gần 7 triệu đồng.

Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ lần thứ hai chỉ rõ phương hướng xây dựng cơ bản năm 1976 là trên cơ sở nắm vững đường lối phát triển kinh tế địa phương, tập trung sức hoàn thành việc xây dựng và sớm đưa vào sử dụng các công trình trọng điểm, trước hết là các công trình thuỷ lợi ở những vùng trọng điểm lúa, các công trình giao thông có tính chiến lược về quốc phòng và kinh tế. Các công trình khai thác và chế biến lâm sản, trà, cà phê và các nông sản khác, các công trình sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác cao lanh, mở rộng nhà máy sứ Vĩnh Tường.

Năm 1976, ngành xây dựng đã sửa chữa được 85 công trình lớn nhỏ, đưa vào sử dụng 55 công trình, xây dựng mới 20 công trình chủ yếu phục vụ cho vùng kinh tế mới với tổng giá trị ước tính đạt 7,1% so với kế hoạch. Về giao thông, đã làm được 87/120 km đường vào vùng kinh tế mới; sửa chữa, bảo dưỡng, nâng cấp 57,5 km đường trong thành phố; sửa chữa hai cầu trên đường 11 và 20; làm 46 km đường giao thông nông thôn. Tổng giá trị vốn đầu tư xây dựng giao thông là 1.243.916 đồng, đạt 95,6% vốn xây dựng giao thông năm 1976.

Về giáo dục, năm học 1976-1977, so với niên học trước số học sinh các cấp tăng 9.237 em. Đội ngũ giáo viên qua một năm giảng dạy và nhất là qua các lớp bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ trong dịp hè đã nâng cao nhận thức, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập, các hoạt động dần đi vào nề nếp. Riêng ở vùng kinh tế mới mở thêm 5 trường cấp 1 với 24 lớp học. Năm 1976, toàn tỉnh mở 482 lớp bổ túc văn hoá, có 11.239 người theo học. Xoá nạn mù chữ cho 7.235 người (có 871 người dân tộc).

Công tác y tế, đến cuối năm 1976, có hai bệnh viện ở Đà Lạt và Bảo Lộc với 700 giường bệnh và 3 bệnh xá, 51/70 cơ quan, 37/52 xã và 22 khóm có cơ sở y tế. Phong trào vệ sinh phòng bệnh được tăng cường, năm 1976 đã tiêm phòng các loại dịch tả, bại liệt, đậu mùa, thương hàn, dịch hạch cho đông đảo nhân dân, công tác bảo vệ bà mẹ trẻ em được chú ý, việc khám, điều trị bệnh cho nhân dân có tiến triển tốt. Năm 1976 đã khám cho 319.612 lượt người và điều trị nội trú cho 121.592 người và ngoại trú 5.456 người. Tính trung bình mỗi người dân trong năm 1976 được khám bệnh 1 lần và cứ 3 người đi khám bệnh có 1 người được điều trị.

Các hoạt động thông tin văn hoá, văn nghệ, phim ảnh, nhất là phong trào văn nghệ quần chúng được đẩy mạnh, góp phần tích cực trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm con người mới, đồng thời tiếp tục đấu tranh chống lại những tàn dư của nền văn hoá nô dịch, đồi truỵ thực dân kiểu mới của Mỹ-nguỵ. Năm 1976 đã củng cố hệ thống phát thanh ở Đà Lạt, mở rộng hệ thống truyền thanh ở các huyện Bảo Lộc, Đức Trọng, Đơn Dương, Di Linh và mạng lưới truyền thanh ở các vùng kinh tế mới, Núi Chai, Tân Rai, Vùng Ba Bảo Lộc.

Về an ninh chính trị và trật tự xã hội, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ hai chỉ rõ: công tác trấn áp bọn phản cách mạng phải làm kiên quyết, toàn diện và liên tục, đúng chính sách và sách lược. Kết hợp việc phát động phong trào quần chúng với việc hoạt động quân sự và an ninh, kết hợp trấn áp với giáo dục, bạo lực với các biện pháp chính trị, kinh tế, văn hoá và tư tưởng. Cô lập bọn đầu sỏ, phân hoá địch cao độ, phấn đấu trong một thời gian nhất định làm tan rã hoàn toàn về tổ chức và lực lượng của bọn FULRO, tiêu diệt các ổ phản động, giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ vững chắc sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và cuộc sống yên lành của nhân dân.

Tình hình lực lượng FULRO năm 1976 mặc dù liên tiếp bị thất bại và trong tình thế ngày càng khó khăn, nhưng chúng vẫn ngoan cố chống lại cách mạng. Chúng tiếp tục củng cố lực lượng, xây dựng địa bàn, thay đổi phương thức hoạt động nhằm thường xuyên gây rối và đánh phá ta lâu dài.

Đến cuối năm 1976, lực lượng vũ trang FULRO ngoài rừng có khoảng 300 tên. Về tổ chức, chúng có hai hệ thống chính trị và quân sự từ trên xuống như vùng (quân khu), tỉnh, quận. Thực chất chúng phân tán thành từng toán vũ trang bám ấp, rẫy để tuyên truyền chống chính quyền cách mạng, móc nối cơ sở, nhận tiếp tế và hoạt động quấy rối. Địa bàn hoạt động và lực lượng bên trong của chúng còn duy trì ở một số xã của các huyện và thành phố Đà Lạt, cụ thể là ở phía Bắc Đà Lạt, Bắc Đức Trọng (dọc quốc lộ 20), Nam Đơn Dương và một số xã ven núi Brayan thuộc huyện Di Linh. Bên ngoài chúng duy trì một số căn cứ ở phía Bắc Đà Lạt và phía Nam Đơn Dương, vào thời điểm cuối năm chúng củng cố thế đứng trên một số địa bàn giáp với phía Tây tỉnh Thuận Hải.

Về hoạt động, chủ yếu là phân tán, nhỏ lẻ, nặng về chính trị, luồn vào bên trong, lợi dụng hợp pháp, nửa hợp pháp, cố tạo mối quan hệ giữa bên trong với bên ngoài, chính trị và quân sự để duy trì lực lượng, đẩy mạnh việc cấu kết với bọn phản động đội lốt tôn giáo trong Thiên chúa giáo, Tin lành với bọn sỹ quan, mật vụ còn lẩn trốn để chống phá chính quyền.

Để chống lại âm mưu của lực lượng phản động FULRO, các cấp uỷ Đảng đã kịp thời chỉ đạo triển khai các phương án trên tất cả các mặt hoạt động chính trị, quân sự, kinh tế, giữa tấn công bọn bên ngoài với truy quét bọn bên trong; giữa cương quyết trừng trị bọn cầm đầu ngoan cố với vận dụng sách lược mềm dẻo để phân hoá lực lượng; kết hợp giữa đánh địch thường xuyên với mở các đợt cao điểm. Với chủ trương đó, năm 1976 nhiệm vụ đánh FULRO đạt được thành tích đáng kể, đã phá 6 căn cứ, diệt 46 tên, bắt1583 tên (998 tên ở bên ngoài, 585 tên ở bên trong) có 151 tên đầu hàng và trình diện, trong số đó có 2 trung tá, 4 thiếu tá, 13 đại uý, 18 thiếu uý, thu 271 súng các loại và một số lương thực.

Sau hai năm được hoàn toàn giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tỉnh Lâm Đồng ra sức bảo vệ và phát huy những thành quả cách mạng đã giành được, tiếp tục khắc phục những hậu quả của chiến tranh để lại, đồng thời từng bước bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đường lối chung của giai đoạn cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (họp từ ngày 14 đến 20-12-1976) đề ra: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học-kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó, cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.[1]

Đại hội lần thứ IV của Đảng cũng đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta:“Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế Trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương; kết hợp kinh tế Trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công-nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh và hạnh phúc”.[2]

 Đại hội đã đề ra những chỉ tiêu và giải pháp lớn của kế hoạch 5 năm (1976-1980): Phấn đấu giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, xây dựng nhiều cơ sở công nghiệp nặng mà trọng tâm là công nghiệp cơ khí, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở miền Bắc, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam để tạo ra quan hệ sản xuất mới đồng nhất trên cả nước. Xây dựng huyện thành pháo đài công-nông nghiệp…

Trước tình hình và nhiệm vụ hết sức lớn lao của giai đoạn cách mạng mới, Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng cũng đã đề ra nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng là: “Các cấp uỷ Đảng ở tỉnh, thành phải mạnh, có khả năng vận dụng đúng đắn sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng và có năng lực góp phần với Trung ương xây dựng đường lối, chính sách…”.

Để đáp ứng kịp với yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, được sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Bí thư Trung ương Đảng, hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo tổ chức triển khai Đại hội ở các tổ chức cơ sở đảng và cấp huyện (tương đương) sau đó tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I, với hai vòng họp, Đại hội vòng I từ ngày 10 đến 20-11-1976 có 204 đại biểu; vòng II từ ngày 25-2 đến 6-3-1977, có 196 đại biểu tham dự đại diện cho 3.309 đảng viên trong toàn tỉnh. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng khoá I (1977-1979), gồm 36 đồng chí, đồng chí Trần Lê được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. Đồng chí Đỗ Quang Thắng Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Lê Thứ Phó Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh.

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I tập trung phân tích đánh giá tình hình mọi mặt của Lâm Đồng sau 2 năm được hoàn toàn giải phóng; cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội IV của Đảng, trên cơ sở những thuận lợi và khó khăn của địa phương. Đại hội xác định phương hướng, nhiệm vụ chung trong những năm tới, nhất là trong hai năm 1977-1978 là“Phải ra sức phát huy đúng mức thành tích và những thuận lợi của mình, đồng thời khắc phục những nhược điểm, khuyết điểm, tăng cường xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản trong tỉnh thêm vững mạnh (nhất là đối với cơ sở). Từng bước phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, dấy lên một phong trào thi đua lao động sôi nổi trong quần chúng, thực hiện kỳ được nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ là xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá theo phương hướng, mục tiêu của kế hoạch 2 năm 1977-1978, trong đó mục tiêu hàng đầu là giải quyết về cơ bản vấn đề lương thực đi đôi với giữ vững và phát huy một bước các thế mạnh của tỉnh. Trên cơ sở đó, từng bước ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho các ngành kinh tế chính trong tỉnh, theo phương hướng hình thành một cơ cấu kinh tế mới đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”.[3]

Từ phương hướng chung, Đại hội đề ra những yêu cầu, mục tiêu cụ thể trong kế hoạch 1977-1978. Trọng tâm trên mặt trận sản xuất là phải ổn định một bước tương đối vững chắc về mặt lương thực, năm 1978 phấn đấu đạt từ 210-230 kg lương thực/đầu người (quy thóc). Chăn nuôi đến 1978, đàn trâu tăng lên 1,5 lần, đàn bò, đàn heo tăng gấp 2 lần so với 1976. Nhanh chóng hình thành mạng lưới cơ khí, nhất là cơ khí sửa chữa phục vụ cho nông nghiệp. Mở rộng hệ thống giao thông vào các vùng kinh tế mới, định canh, định cư, phục vụ lâm nghiệp và các vùng trọng điểm, phục vụ triển khai các dự án theo kế hoạch 5 năm của tỉnh. Điều chỉnh và phân bổ từng bước lực lượng lao động sản xuất, tập trung công tác khai hoang định canh, định cư. Hoàn thành việc thực hiện chính sách ruộng đất và cơ bản đưa nông dân vào làm ăn tập thể. Thực hiện việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, tạo điều kiện để tiến tới cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ, kết hợp cải tạo với xây dựng và tổ chức lại sản xuất, cải tiến các hoạt động lưu thông phân phối, phát triển mạnh lực lượng thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Từng bước xây dựng hệ thống quản lý kinh tế, định rõ việc phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, tạo điều kiện cho cấp huyện trở thành đơn vị nông-lâm-công nghiệp chủ động, hết sức quan tâm xây dựng bộ máy quản lý ở cơ sở; kiên quyết khắc phục lối những thiếu sót trong quản lý hành chính, xã hội và kinh tế.

Ra sức phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế, tiến hành cải cách giáo dục; từng bước thanh toán các tệ nạn xã hội và các tàn dư văn hoá đồi truỵ. Động viên phong trào cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, thanh niên xung phong tham gia lao động sản xuất và các phong trào cách mạng sâu rộng, liên tục của quần chúng làm động lực thúc đẩy ba cuộc cách mạng tiến lên. Qua đó, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân, bảo đảm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế trong thời gian tới của tỉnh.

Xây dựng và sử dụng một cách tổng hợp, có hiệu quả các lực lượng quân sự, an ninh và các đoàn thể quần chúng để đánh bại các hoạt động bạo loạn có vũ trang và trấn áp kịp thời mọi lực lượng phản cách mạng hiện hành; từng bước củng cố vững chắc an ninh chính trị và trật tự xã hội trên phạm vi toàn tỉnh. Xây dựng Đảng bộ vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, quán triệt sâu sắc đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng, không ngừng nâng cao tính chiến đấu và năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng đủ sức thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn mới.

Hơn hai năm (3-1977 đến 10-1979), Đảng bộ, nhân dân Lâm Đồng thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ I của Đảng bộ tỉnh, Nghị quyết Đại hội IV của Đảng và Nghị quyết của các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khoá IV: Hội nghị lần thứ hai (7-1977) bàn về nông nghiệp; Hội nghị lần thứ ba (12-1977) bàn về kế hoạch kinh tế năm 1978, về khắc phục sự trì trệ trong sản xuất và quản lý kinh tế; Hội nghị lần thứ năm (12-1978) đề ra ba nhiệm vụ lớn của năm 1979: ổn định và bảo đảm đời sống, bảo đảm an ninh bảo vệ Tổ quốc; xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt, chuẩn bị điều kiện phát triển cho những năm sau.

Triển khai các nghị quyết trên trong bối cảnh tình hình đất nước hết sức khó khăn, phức tạp: Sản xuất và quản lý kinh tế trì trệ; phân phối lưu thông rối ren. Lương thực thiếu hụt triền miên phải nhập khẩu ngày càng lớn. Từ tháng 4-1977 tập đoàn Pôn Pốt ở Campuchia tiến hành chiến tranh quy mô lớn chống Việt Nam. Ngày 17-2-1979, 50 vạn quân Trung Quốc vô cớ tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam. Đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục siết chặt cấm vận kinh tế nước ta. Tại địa phương, vẫn còn nhiều khó khăn lớn trên nhiều mặt, nhất là lực lượng FULRO và bọn phản động khác thừa cơ chiến tranh biên giới, chúng tập hợp, củng cố lực lượng tăng cường chống phá ta.

Phát huy những thành tựu bước đầu đã đạt được, với truyền thống phấn đấu vươn lên trong khó khăn, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (Khoá I) đã tiếp thu sâu sắc các quan điểm chỉ đạo từ các nghị quyết Trung ương, cụ thể hoá thành những nghị quyết của Tỉnh uỷ trên các lĩnh vực: về nông nghiệp, xây dựng kế hoạch kinh tế-xã hội, công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, về giải quyết vấn đề FULRO… Đồng thời, Tỉnh uỷ tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện đến toàn Đảng bộ, toàn dân trong tỉnh. Suốt 2 năm nhiệm kỳ của Đại hội I, Đảng bộ và nhân dân Lâm Đồng đạt được kết quả bước đầu trong việc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội.

Về kinh tế, trong hai năm, sản lượng lương thực tăng trên 64%, trong khi dân số chỉ tăng 10,3%, lương thực bình quân đầu người từ 147 lên 230 kg. Kết quả sản xuất lương thực đã tạo điều kiện giải quyết được một phần quan trọng cho nhu cầu tại chỗ và giảm dần mức chi viện của Trung ương, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để duy trì và phát huy thế mạnh của địa phương. Các ngành khác như công nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, lưu thông phân phối đều có tăng về nhịp độ phát triển và chuyển biến về cơ cấu theo hướng ngày càng hợp lý hơn, khắc phục dần tình trạng mất cân đối của nền kinh tế. So với cuối năm 1976, tổng sản phẩm xã hội tăng 91%. Trong đó, ngành công nghiệp tăng 77%, nông nghiệp tăng 66,7%, cơ cấu và thành phần kinh tế cũng dần dần được điều chỉnh. Trong tổng sản phẩm xã hội, tỷ trọng công nghiệp từ 16% tăng lên 23,1%; nông nghiệp từ 48% giảm xuống còn 46,6%; kinh tế quốc doanh và tập thể từ 22,8% lên 34,2%, riêng quốc doanh chiếm 32,8%, thu nhập quốc dân tăng 92,6%, quỹ tiêu dùng tăng 67,6%, quỹ tích luỹ tăng 2 lần.

Từ ngày 29-4 đến ngày 5-5-1978, Tỉnh uỷ đã lãnh đạo thực hiện hoàn thành tốt việc đổi tiền trên địa bàn toàn tỉnh theo Quyết định số 87 ngày 25-4-1978 của Chính phủ.

Việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các ngành kinh tế và một phần cho nhu cầu phúc lợi công cộng có vốn đầu tư xây dựng cơ bản tăng khá nhanh. Số vốn thực hiện năm 1978 gấp 6 lần so với năm 1976, vốn đầu tư cho khu vực sản xuất vật chất chiếm từ 77-90%, trong đó, vốn dành cho nông nghiệp chiếm 54%, công nghiệp 18%, lâm nghiệp 17%, trong vốn đầu tư cho nông nghiệp, thuỷ lợi chiếm 44%.

Công tác phát triển giáo dục được quan tâm hơn: nhu cầu học tập của cán bộ, nhân dân được đáp ứng bước đầu; các ngành học từ mầm non, giáo dục phổ thông, bổ túc văn hoá, giáo dục chuyên nghiệp… đều phát triển. Sau khi hoàn thành tương đối sớm việc căn bản xoá mù chữ, ngành giáo dục thực hiện phổ cập cấp I, bình quân 4 người có 1 người đi học.

Ngành y tế đã xây dựng, củng cố mạng lưới từ tỉnh đến xã, có nơi đến khóm (ấp), hoạt động của ngành bước đầu đáp ứng một phần yêu cầu chăm lo sức khoẻ cho cán bộ, chiến sĩ, nhân dân, phục vụ sản xuất và công tác. Cơ quan khoa học, kỹ thuật của tỉnh được thành lập, bước đầu tổ chức nghiên cứu thực hiện một số đề tài phục vụ nhiệm vụ kinh tế trước mắt của địa phương.

Hoạt động văn hoá-thông tin được đẩy mạnh. Báo Lâm Đồng và Đài Phát thanh Lâm Đồng mặc dù mới được thành lập (Báo Lâm Đồng ngày 20-6-1977, Đài Phát thanh Lâm Đồng ngày 29-3-1978) còn nhiều khó khăn, nhất là thiếu cán bộ, cũng như về cơ sở vật chất, kỹ thuật nhưng đã có nhiều cố gắng, từng bước mở rộng và chuyển tải kịp thời thông tin phục vụ cho nhiều đối tượng ở các vùng trong tỉnh. Báo, đài đã phổ biến, giáo dục đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; tuyên truyền các nhiệm vụ trọng tâm, phản ánh những nhân tố tích cực, gương người tốt, việc tốt trong phong trào lao động, sản xuất và chiến đấu; góp phần phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân và động viên được khí thế cách mạng của quần chúng trong việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương.

Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong tỉnh ngày càng được ổn định, tệ nạn xã hội có lúc tăng về số lượng nhưng giảm về tính chất nghiêm trọng. Hoạt động FULRO bị đẩy lùi một bước, lực lượng của chúng giảm dần và thu hẹp địa bàn hoạt động. Các phe, nhóm phản động khác cũng bị ta phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Ngay những tháng cuối năm 1978 đầu năm 1979 tình hình chung khá phức tạp, nhưng an ninh, chính trị trong tỉnh được duy trì. Tình hình chính trị ở các vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo và các vùng tập trung người Hoa, nhờ vận dụng đúng đắn các chủ trương, chính sách của Đảng nên có nhiều chuyển biến tích cực. Việc xây dựng lực lượng quân sự và công an nhất là ở cơ sở có bước phát triển nhanh, từng bước hình thành thế trận mới, kết hợp kinh tế với quốc phòng, sản xuất với chiến đấu, thế trận liên hoàn, đi vào chiều sâu, tập trung xây dựng huyện thành pháo đài quân sự. Tỉnh cũng chú ý xây dựng các ngành trong khối nội chính phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, góp phần từng bước đưa công tác pháp chế đi vào nề nếp.

Thực lực các đoàn thể quần chúng từng bước được xây dựng, củng cố và mở rộng trong hai năm phát triển được số lượng đoàn viên công đoàn chiếm 50% tổng số cán bộ, công nhân viên chức trong tỉnh. Đoàn viên Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh chiếm 14%; hội viên Hội Phụ nữ chiếm 40%; hội viên Nông hội chiếm 18% tổng số nông dân trong toàn tỉnh. Về số lượng các đoàn thể đều tăng gấp hai lần năm 1976. Qua học tập đường lối, chủ trương, pháp luật của Đảng, Nhà nước và những thử thách trong thực tiễn công tác, nhận thức, trình độ chính trị, nghiệp vụ của nhiều đoàn viên, hội viên được nâng lên, thể hiện qua những phong trào hành động cách mạng thiết thực, như thực hiện tốt Lệnh tổng động viên, nghĩa vụ quân sự, tham gia phong trào hợp tác hoá, làm thuỷ lợi, khai hoang phát triển sản xuất, thực hiện nghĩa vụ lương thực, tham gia phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng cấp huyện thành pháo đài quân sự…

Cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp trong tỉnh lần đầu tiên được tổ chức thành công vào ngày 15-5-1977. Hoạt động của Hội đồng từng bước đi vào nề nếp, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ. Bộ máy chính quyền từ tỉnh đến cơ sở được xây dựng, củng cố, năng lực quản lý nhà nước có nhiều chuyển biến. Có 43 ty, ban, ngành và 7 huyện, thành trực thuộc cấp tỉnh. Ở cấp cơ sở, thông qua phong trào hành động cách mạng và qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, nhiều cán bộ được rèn luyện, học tập và chọn lọc bổ sung cho bộ máy chính quyền cơ sở, hiện toàn tỉnh có 69 xã, phường.

Công tác xây dựng Đảng được tăng cường, củng cố cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Sau khi thực hiện Chỉ thị số 240-CT/TW, ngày 6-10-1976 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đại hội Đảng bộ các cấp trong tỉnh được tiến hành, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển mọi mặt công tác xây dựng Đảng. Công tác tư tưởng được chú ý hơn, toàn Đảng bộ học xong Nghị quyết Trung ương 5 về tình hình nhiệm vụ năm 1979.

 Quán triệt Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị, toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân trong tỉnh xác định rõ hơn âm mưu và tội ác của kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm. Hầu hết cán bộ, đảng viên đều có nhận thức đúng đắn và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình chiến tranh biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam nước ta.

 Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã quan tâm củng cố các cơ quan tham mưu của Tỉnh uỷ, như việc ra Nghị quyết số 25-NQ/TU, ngày 18-9-1977 Về việc thành lập Ban Dân vận-Mặt trận tỉnh; Nghị quyết số 01-NQ/TU, ngày 10-8-1978 Về việc thành lập trường Lý luận chính trị tại chức (nay là Trường Chính trị tỉnh); Nghị quyết số 10-NQ/TU, ngày 10-8-1988 Về việc tổ chức mạng lưới báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp trong tỉnh... Thực hiện quyết định số 116-CP, ngày 14-3-1979 của Hội đồng Chính phủ về việc thành lập hai huyện mới Lạc Dương và Đạ Huoai và một số ban cán sự Đảng ở các ty, ngành đã giúp Tỉnh uỷ lãnh đạo sâu hơn các ngành và các địa phương trong tỉnh. Các tổ chức cơ sở đảng đã có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đến tháng 6-1979, toàn Đảng bộ tỉnh có 340 tổ chức cơ sở đảng (30 đảng uỷ cơ sở, 310 chi bộ cơ sở) với 4.603 đảng viên. Chất lượng lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện của nhiều cấp uỷ cơ sở được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới.

Những kết quả đạt được trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ I của Đảng bộ tỉnh đã làm cho tình hình kinh tế-xã hội của Lâm Đồng dần dần được phục hồi và có bước phát triển. Tuy vậy, trên một số lĩnh vực vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (Khoá I) cũng đã nghiêm khắc kiểm điểm và thấy được những khuyết điểm. Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đề ra không cao so với khả năng nhưng kết quả thực hiện thấp, nhất là chỉ tiêu sản lượng và năng suất cây lương thực, chế biến, thu mua lương thực và nông sản… Do đó, chưa khắc phục được các mặt mất cân đối trong nền kinh tế, đời sống nhân dân chưa được cải thiện. Công tác quản lý chưa có chuyển biến mạnh, nhất là công tác kế hoạch hoá, chưa quán triệt ý chí tự lực, tự cường nên chưa phát huy hết tiềm năng đất đai, lao động, tài nguyên và cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có tại địa phương. Việc thực hiện kết hợp ba cuộc cách mạng chưa chặt chẽ và chưa triển khai toàn diện, đồng bộ, nội dung, phương thức tiến hành ở cơ sở, vùng nông thôn, nhất là vùng dân tộc, tôn giáo chưa đạt được những kết quả cụ thể. Chưa thực sự phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Việc xây dựng vùng dân tộc chưa có kế hoạch toàn diện, nhất là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và chưa mạnh dạn đào tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số… làm hạn chế việc phấn đấu đưa vùng dân tộc ít người tiến kịp vùng Kinh.

Tổ chức bộ máy các cấp còn yếu, lề lối làm việc chậm cải tiến, nhất là về chỉ đạo, quản lý kinh tế nhưng chưa có biện pháp khắc phục một cách có hiệu quả. Những khuyết điểm trên đây đã được Tỉnh uỷ (Khoá I) nêu rõ nguyên nhân khách quan là do nền kinh tế vừa mới thoát khỏi chiến tranh còn què quặt và mất cân đối nghiêm trọng. Nguyên nhân chủ quan là chưa quán triệt đầy đủ quan điểm, đường lối của Đảng, công tác lãnh đạo tổ chức thực hiện của cấp uỷ các cấp còn yếu, ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao, nặng tư tưởng ỷ lại, trông chờ; vai trò làm chủ tập thể của quần chúng và cán bộ, đảng viên chưa được phát huy đúng mức; công tác xây dựng Đảng chưa thường xuyên được tăng cường, củng cố…

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng và các chỉ thị, nghị quyết khác của Trung ương Đảng, Chính phủ về công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (Khoá I) đã vận dụng đúng đắn chủ trương, đường lối của trên vào điều kiện thực tế địa phương để xây dựng kế hoạch hành động trong từng thời kỳ và tổ chức thực hiện trong toàn Đảng bộ, tập trung cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa đạt được nhiều kết quả, kế hoạch đề ra.

Những tháng đầu năm 1977, Tỉnh uỷ phát động quần chúng nhân dân, cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ dấy lên phong trào xoá bỏ triệt để tàn tích chiếm hữu ruộng đất và các hình thức bóc lột của thực dân, phong kiến, đem lại quyền làm chủ ruộng đất và các tư liệu sản xuất cho nhân dân. Tỉnh thành lập các Ban cải tạo nông nghiệp, công thương nghiệp chuyên trách công tác này; ban hành chỉ thị trưng tập cán bộ, đảng viên đang công tác tại các ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh, huyện tăng cường giúp cơ sở vận động quần chúng nhân dân thực hiện chủ trương cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa; tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tham gia phong trào hợp tác hoá… Do có sự lãnh đạo đúng đắn, chặt chẽ của Tỉnh uỷ, cùng với những đặc điểm của địa phương như: ruộng đất bị chiếm hữu thuộc diện phải thu hồi không nhiều; việc tranh chấp ruộng đất trong nội bộ nông dân không lớn; các cơ sở sản xuất, kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa trong địa phương còn nhỏ, lẻ nên công tác cải tạo quan hệ sản xuất cũ ở Lâm Đồng được tiến hành nhanh gọn, đúng chính sách, tạo được sự phấn khởi của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Cuối năm 1977, Lâm Đồng cơ bản cải tạo xong những hình thức quan hệ sản xuất cũ, tạo điều kiện sớm bắt tay vào công tác xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa trên nhiều lĩnh vực:

Về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, sau khi hoàn thành cơ bản việc thực hiện chính sách ruộng đất vào đầu năm 1977, công cuộc hợp tác hoá được tiến hành với những hình thức giản đơn ban đầu như vần, đổi công, đoàn kết tương trợ sản xuất. Sau đó, trên cơ sở các phương án của tỉnh, huyện; việc phân vùng quy hoạch trên địa bàn toàn tỉnh; trình độ của cán bộ và người trực tiếp lao động, sản xuất được nâng lên, nội dung và bước đi của phong trào hợp tác hoá trong nông nghiệp từng bước được nâng cao hơn qua các hình thức tổ chức làm ăn tập thể như hợp tác xã, tập đoàn sản xuất. Đầu năm 1979, toàn tỉnh tổ chức được 25 hợp tác xã, 800 tập đoàn sản xuất và 1.500 tổ đoàn kết sản xuất nông nghiệp, tập hợp trên 80% hộ nông dân và 90% diện tích đất canh tác nông nghiệp trong toàn tỉnh ; đào tạo gần 3.500 cán bộ, cốt cán cho phong trào hợp tác hoá. Dựa trên đặc điểm kinh tế, kỹ thuật và tình hình chính trị - xã hội của mỗi nơi, số tập đoàn sản xuất và hợp tác xã được xây dựng theo nhiều loại hình khác nhau (vùng lượng thực, vùng chè, cà phê, dâu tằm, rau hoa, vùng Kinh, vùng dân tộc thiểu số…). Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng phong trào hợp tác hoá đã tạo ra một biến đổi mới không chỉ về mặt quan hệ sản xuất mà còn tác động mạnh đến tình hình chính trị, xã hội, tư tưởng và tổ chức ở nông thôn. Đây là tiền đề và là động lực để tổ chức lại sản xuất, tăng cường quản lý kinh tế, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, củng cố an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phát huy quyền làm chủ tập thể của nông dân lao động.

Đến cuối năm 1977, việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, căn bản xoá bỏ sự chiếm hữu tư nhân, tư bản chủ nghĩa trong các ngành công nghiệp, lâm nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, y tế và các dịch vụ quan trọng. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh của tư nhân sau khi được cải tạo đã chuyển thành quốc doanh hoặc công tư hợp doanh. Đối với thương nghiệp, trong năm 1978 căn bản xoá bỏ phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa, tiến hành một bước việc tổ chức lại sản xuất, kinh doanh cho những người buôn bán nhỏ, củng cố và mở rộng mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán. Đầu năm 1979, trên địa bàn toàn tỉnh, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa đã nắm và phân phối phần lớn mặt hàng thiết yếu, thương nghiệp quốc doanh nắm toàn bộ hoạt động mua bán xuất nhập khẩu và bán buôn bán lẻ. Tổng doanh số mua vào trong 2 năm (1977-1978) kể cả vật tư, lương thực trị giá trên 195 triệu đồng, trong đó tại địa phương có giá trị mua vào hàng năm đều tăng. Tổng mức bán lẻ của thương nghiệp quốc doanh từ 42% năm 1976 tăng lên 70% tổng mức bán lẻ toàn xã hội của năm 1978.

Công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các ngành tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ quan trọng bước đầu đạt được kết quả, gồm 20 hợp tác xã, trên 70 tổ hợp tác với khoảng 4.000 lao động làm ăn tập thể. Qua đó, vị trí của các ngành tiểu thủ công nghiệp trong nền kinh tế của tỉnh ngày được nâng lên. Giá trị tổng sản lượng tiểu thủ công nghiệp năm 1978 gấp 4 lần năm 1976. Việc cải tạo kết hợp với tổ chức lại sản xuất đã mở thêm một số ngành nghề làm hàng tiêu dùng và xuất khẩu, góp phần giải quyết thêm việc làm cho lao động ở khu vực thành thị.

Công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với ngành nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và một số ngành dịch vụ, kết hợp với việc tổ chức lại sản xuất đã có tác động mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực trong xã hội: việc phân bố lại lao động giữa các vùng và các ngành kinh tế bước đầu có những chuyển biến tích cực; định canh định cư cho 37.000 đồng bào dân tộc thiểu số, chuyển 7.370 lao động thành thị sang sản xuất nông nghiệp, đưa hàng ngàn tiểu thương sang các ngành sản xuất khác, tiếp nhận 15.650 lao động từ các tỉnh khác đến xây dựng các vùng kinh tế mới. Qua đó, số lao động trong các ngành kinh tế quốc dân tăng 26% so với cuối năm 1976; trong đó, lao động nông nghiệp tăng 14,7%, lao động công nghiệp tăng 60%, lao động ngành xây dựng tăng gấp 3 lần… Việc xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho các ngành kinh tế và một phần cho nhu cầu phúc lợi công cộng được đẩy mạnh. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản tăng khá nhanh, số vốn thực hiện năm 1978 tăng gấp 6 lần so với năm 1976; vốn đầu tư cho khu vực sản xuất vật chất chiếm từ 77-90%; trong đó, vốn dành cho nông nghiệp chiếm 54%, công nghiệp 18%, lâm nghiệp 17%.

Những kết quả trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa tại địa phương đã góp phần “mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, xây dựng quan hệ sản xuất mới, bước đầu hình thành một cơ cấu kinh tế mới theo hướng đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa” như yêu cầu Nghị quyết Đại hội lần thứ I Đảng bộ tỉnh đã đề ra.

III. CỦNG CỐ XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ, CHÍNH QUYỀN, CÁC ĐOÀN THỂ CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN

Công tác xây dựng Đảng bộ tiếp tục được thực hiện theo Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ hai. Nghị quyết chỉ rõ: Để làm tròn nhiệm vụ hết sức nặng nề và vẻ vang trong giai đoạn cách mạng mới của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã giao phó, cần phải tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Đảng bộ và bộ máy Nhà nước. Đây là nhiệm vụ cấp bách và then chốt trong việc tăng cường sức chiến đấu của Đảng, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội.

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tập trung vào việc quán triệt Nghị quyết 23, 24 của Trung ương Đảng, Nghị quyết 254 của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Tỉnh uỷ. Qua học tập, hầu hết cán bộ, đảng viên nhận thức được tình hình nhiệm vụ mới, về đường lối, chính sách của Đảng, về nội dung và bước đi của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Nam. Qua học tập đã củng cố thêm một bước về lập trường quan điểm, ý chí chiến đấu, tinh thần trách nhiệm và đạo đức phẩm chất của cán bộ, đảng viên.

Năm 1976 phát triển thêm 59 đảng viên, phục hồi 16 đảng viên, kết nạp lại 6 đảng viên, đưa tổng số đảng viên của toàn Đảng bộ lên 3.309 đồng chí (trong đó có 138 đảng viên dự bị, 418 đảng viên nữ, 727 đảng viên là dân tộc ít người), có 222 cơ sở Đảng (14 đảng uỷ cơ sở, 208 chi bộ); so với năm 1975, số cơ sở đảng tăng 124 đơn vị và số đảng viên tăng 673 đồng chí.

Về kỷ luật đảng viên có 47 trường hợp, trong đó khai trừ 11, xoá tên 1, lưu đảng 17, cách chức 6 và cảnh cáo 12, các trường hợp bị thi hành kỷ luật là do mất phẩm chất đạo đức, tham ô, vi phạm chính sách....

Về đào tạo cán bộ, năm 1976 có 7 đồng chí được cử đi học ở trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương; 23 đồng chí dự lớp bồi dưỡng ở Trường Nguyễn Ái Quốc Phân hiệu 7; 92 đồng chí học nghiệp vụ ở các trường Trung ương. Trường Đảng tỉnh mở 3 lớp bồi dưỡng cho 153 cán bộ sơ cấp. Các ngành, các cấp mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho 309 cán bộ phụ nữ xã, sơ cấp nông nghiệp, thuỷ lợi, tài chính và thương nghiệp.

Phát động quần chúng, xây dựng củng cố chính quyền và các đoàn thể được đẩy mạnh trong năm 1976. Các cấp uỷ Đảng trực tiếp chỉ đạo công tác phát động quần chúng với yêu cầu phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng củng cố chính quyền ở cơ sở, đẩy mạnh sản xuất và tấn công truy quét địch. Phương pháp tiến hành chặt chẽ, từng bước, có điểm, có diện và kịp thời tổng kết rút kinh nghiệm. Tổng số quần chúng được phát động là 152.240 người (có 34.500 người dân tộc thiể số), qua phát động đã lựa chọn và tập huấn cho 3.749 cốt cán, trong đó có 554 cốt cán người dân tộc. Tiếp theo là đợt học tập Nghị quyết 24 của Trung ương Đảng cho rộng rãi quần chúng, với số người tham gia là 91.330 người (có 12.270 người là đồng bào dân tộc thiểu số), 6.375 công nhân viên chức Nhà nước.

Qua các đợt phát động quần chúng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố chính quyền và các đoàn thể. Về xây dựng củng cố chính quyền ở cơ sở, đến cuối năm 1976 có 52 xã, 3 khu phố, 28 thôn, ấp và 25 khóm dân cư được củng cố. Tổng số cán bộ trong Uỷ ban nhân dân các xã có 432 người (trong đó có 173 cán bộ là người dân tộc thiểu số), có hơn 300 cán bộ các ban, ngành giúp việc trong các uỷ ban nhân dân xã; hệ thống chính quyền đã được củng cố một bước và hoạt động có hiệu quả.

Các đoàn thể cách mạng được mở rộng hoạt động. Tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh có nhiều cố gắng trong công tác vận động, giáo dục, thúc đẩy các phong trào hành động cách mạng trong thanh thiếu niên, tiêu biểu là các phong trào làm thuỷ lợi, làm phân bón, trồng cây gây rừng. Hàng ngàn thanh niên của thành phố Đà Lạt tham gia xây dựng vùng kinh tế mới ở Núi Chai, Tà In, Phú Hiệp, xây dựng nông trường Hà Giang (vùng Ba Bảo Lộc). Về tổ chức, qua hơn một năm phát triển được 1.705 đoàn viên, xây dựng thêm 118 chi đoàn, nâng tổng số đoàn viên đến cuối năm 1976 lên 2.613 người, sinh hoạt trong 141 chi đoàn. Lực lượng thanh niên giải phóng có 17.289 hội viên, chiếm 34% tổng số thanh niên. Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, năm 1976 đã phát triển được 6.450 đội viên, sinh hoạt trong 173 Liên đội.

Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp từ tỉnh đến cơ sở thường xuyên tổ chức cho chị em học tập các tài liệu về truyền thống phong trào phụ nữ. Trong năm 1976 có 269.690 lượt chị em (khoảng 50.000 người, chiếm 65% chị em từ 18 tuổi trở lên) tham gia học tập. Năm 1976 đã phát triển 8.425 hội viên phụ nữ, đưa tổng số hội viên lên 21.442 chị em; ngoài ra còn tập hợp được 46.270 chị em vào tổ chức phụ nữ rộng rãi; mở được 16 lớp bồi dưỡng có 1.588 cán bộ từ tỉnh đến cơ sở tham gia.

Liên hiệp công đoàn tỉnh năm 1976 đã tích cực tập hợp lực lượng công nhân viên chức, hình thành và củng cố các tổ chức công đoàn cơ sở; mở các lớp đào tạo cốt cán, cán bộ công đoàn các cấp. Cuối năm 1976, toàn tỉnh có 152 công đoàn cơ sở với 5.763 đoàn viên, trong đó có 57 công đoàn thuộc các cơ sở sản xuất.

Tổ chức Nông hội, đến cuối năm 1976 có 785 tổ nông hội và 12.038 hội viên. Ở nhiều địa phương tổ nông hội đã phát huy vai trò trong phát triển sản xuất, triển khai việc hợp đồng với Nhà nước nhận vật tư nông nghiệp để phân phối cho nông dân và thực hiện kế hoạch sản xuất.

Qua hơn một năm xây dựng, củng cố, các đoàn thể đã có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, các hoạt động của đoàn thể tập trung vào thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm là phát triển kinh tế-xã hội.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể, với sự nỗ lực phấn đấu của các tầng lớp nhân dân, sau hơn một năm vượt qua gian khổ, hy sinh, quân dân Lâm Đồng đã đạt được những kết quả quan trọng.

Nhiệm vụ khôi phục, cải tạo, phát triển kinh tế, nhất là về sản xuất lương thực, văn hoá, y tế, giáo dục đạt được những thành tích đáng kể. Các ngành kinh tế khác cũng đều cố gắng phát triển theo phương hướng chung nhằm phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân. Tuy còn nhiều khó khăn nhưng mức thu nhập của nhân dân có tăng lên, đời sống đi dần vào thế ổn định. Nhiệm vụ xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa nhất là trong lĩnh vực nông-thương nghiệp được tiến hành. Thành phần kinh tế quốc doanh tuy còn nhỏ bé nhưng đã tạo được vị trí quan trọng.

An ninh chính trị và trật tự xã hội từng bước được củng cố. Bọn FULRO và các thế lực phản động khác tiếp tục bị ta truy quét, lực lượng của chúng bị tổn thất, phân hoá và đang ở trong thế ngày càng khó khăn, suy yếu. Quần chúng cách mạng được tập hợp rộng rãi, đông đảo, nhiều cốt cán mới ở xóm, ấp được bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả, quyền làm chủ tập thể của nhân dân từng bước được phát huy. Chính quyền và đoàn thể các cấp được gạn lọc và củng cố.

Các cấp uỷ Đảng có bước trưởng thành, đảm bảo được sự lãnh đạo của Đảng trong tất cả các lĩnh vực. Việc giáo dục chính trị, tiến hành tự phê bình và phê bình trong Đảng có nhiều chuyển biến tốt, nhất là trong số cán bộ cốt cán.

Bên cạnh những thành tích và ưu điểm, lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ vẫn còn nhiều thiếu sót, khuyết điểm. Trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, còn lúng túng, thiếu đồng bộ, chưa huy động hết những khả năng sẵn có để tập trung vào các mục tiêu chủ yếu của kế hoạch. Tinh thần phấn đấu của một số cán bộ, đảng viên chưa cao, phối hợp giữa các cấp, các ngành thiếu nhịp nhàng đã dẫn đến tình trạng chậm trễ, lãng phí. Ngành công nghiệp chưa bám sát việc phục vụ nông nghiệp. Nông nghiệp chưa cân đối được giữa việc tăng diện tích với thâm canh, tăng vụ, chưa chú trọng đến vai trò biện pháp kỹ thuật. Trình độ quản lý của cán bộ yếu nên dẫn đến lỏng lẻo, sơ hở và thiếu kế hoạch.

Trong lưu thông phân phối và quản lý thị trường còn nhiều vấn đề phức tạp. Chính sách về giá cả, tiêu chuẩn chế độ phân phối chưa hợp lý, thủ tục rườm rà gây ra nhiều phiền phức và chưa có tác dụng thúc đẩy sản xuất. Trong cải tạo chưa gắn với xây dựng, việc thu mua lương thực và các loại nông sản khác không đạt chỉ tiêu, hợp đồng hai chiều giữa Nhà nước với nông dân còn nhiều trở ngại. Đối với đồng bào dân tộc ít người, nhất là vùng căn cứ cũ, vùng sâu, vùng xa đời sống đang gặp nhiều khó khăn nhưng chưa được chăm lo thoả đáng.

Việc truy quét FULRO, trấn áp bọn phản cách mạng bảo vệ an ninh trật tự, có lúc có nơi chưa phát huy hết sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, chưa kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp quân sự, an ninh với phát động quần chúng phát triển kinh tế. Bộ máy chính quyền, đoàn thể ở cơ sở hầu hết còn yếu, chưa đủ sức quản lý và triển khai công việc; có lúc, có nơi hoạt động của các đoàn thể chưa bám sát nhiệm vụ trọng tâm của địa phương.

Công tác xây dựng Đảng, có lúc, có nơi chưa theo kịp nhiệm vụ chính trị. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa sâu, chất lượng sinh hoạt chi bộ còn thấp, nhất là cấp cơ sở. Một số cán bộ, đảng viên chưa thật sự gắn bó với phong trào quần chúng nên chưa trở thành hạt nhân lãnh đạo.

Về vai trò lãnh đạo, tuy có những cố gắng trong việc vận dụng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng vào thực tế địa phương, đã quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng nội bộ Đảng và vấn đề phát động quần chúng, xem đó là yếu tố cơ bản và then chốt để thực hiện những chủ trương kế hoạch đề ra. Song, các cấp uỷ Đảng vẫn chưa chỉ đạo toàn diện, thiếu sâu sát do vậy đã ảnh hưởng không tốt đến tình hình sản xuất và đời sống của nhân dân.


[1] Đảng cộng sản Việt Nam; Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội,1977,tr. 67

[2] Đảng cộng sản Việt Nam; Sdd, tr. 67-68

[3] Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng. trang 05 (tài liệu đang lưu trữ tại phòng Lịch sử Đảng, ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lâm Đồng.) 

CHƯƠNG II

ĐẨY MẠNH CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA,

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI,

GIỮ VỮNG QUỐC PHÒNG, AN NINH

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

(1979-1985)

 

I. CẢI TẠO, XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ CÔNG-NÔNG-LÂM NGHIỆP KẾT HỢP, TỪNG BƯỚC THỰC HIỆN CẢI TIẾN CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ

Những tháng đầu năm 1979, thực hiện sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc tiến hành đại hội Đảng các cấp, Tỉnh uỷ Lâm Đồng đã lãnh đạo việc tổ chức Đại hội Đảng các cấp trong tỉnh, tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ II. Đến hết quý I-1979, các tổ chức cơ sở Đảng trong tỉnh cơ bản tiến hành xong Đại hội cấp cơ sở; quý II-1979, Đảng bộ cấp huyện (tương đương) tổ chức Đại hội.

Được sự nhất trí và lãnh đạo trực tiếp của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng (Khoá I) triệu tập Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ II, từ ngày 2 đến 8-10-1979. Đại hội làm việc trong 7 ngày, không kể buổi họp trù bị và 1 ngày học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá IV). Dự Đại hội có 248 đại biểu chính thức, đại diện cho 4.603 đảng viên đang sinh hoạt trong 340 tổ chức cơ sở đảng và 14 đảng bộ trực thuộc Tỉnh uỷ. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (Khoá II) gồm 43 đồng chí (trong đó có 39 uỷ viên chính thức và 4 uỷ viên dự khuyết). Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá II bầu Ban Thường vụ Tỉnh uỷ gồm 11 đồng chí, đồng chí Đỗ Quang Thắng được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ. Các đồng chí Huỳnh Minh Nhựt và Nguyễn Trung Tín làm Phó Bí thư Tỉnh uỷ.

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ II đánh giá sâu sắc việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ I của Đảng bộ tỉnh. Trên cơ sở tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội IV của Đảng, các nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương (Khoá IV), căn cứ vào tình hình, đặc điểm của địa phương, Đại hội đề ra nhiệm vụ chung trong thời gian tới: Động viên Đảng bộ và toàn dân, toàn quân trong tỉnh hăng hái vươn lên, ra sức phát huy thắng lợi, khắc phục khó khăn, quyết tâm xây dựng Lâm Đồng từng bước mạnh lên cả về kinh tế và quốc phòng, đặc biệt chú ý khai thác, phát huy mọi tiềm năng sẵn có để xây dựng tỉnh nhà sớm có nền kinh tế theo cơ cấu công-nông-lâm nghiệp kết hợp; mà trọng tâm trước mắt là sản xuất lương thực kết hợp với từng bước phát huy các thế mạnh để tăng cường nguồn hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng và đưa kinh doanh du lịch lên thành ngành kinh tế bổ sung; trên cơ sở đó, từng bước ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật, tăng cường khả năng quốc phòng, góp phần tích cực cùng cả nước xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn mới.

Đại hội đề ra những mục tiêu trong 2 năm 1980-1981 là: đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm nhằm chủ động giải quyết căn bản nhu cầu tại chỗ trong mọi tình huống; tích cực sản xuất hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng trên cơ sở phát huy thế mạnh về các loại đặc sản, kết hợp với tận dụng sức lao động và tay nghề hiện có của địa phương để tăng cường khả năng xuất khẩu và đáp ứng một phần nhu cầu hàng tiêu dùng của nhân dân trong tỉnh.

Đại hội đề ra yêu cầu cấp bách trong 2 năm 1980-1981 cần phải nỗ lực phấn đấu thực hiện:Về sản xuất, chú trọng hơn nữa phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, tận dụng ruộng đất hiện có và khai hoang mở rộng diện tích, trọng tâm hàng đầu là sản xuất lương thực, thực phẩm, đồng thời ra sức giữ vững và phát huy thế mạnh của địa phương, đảm bảo đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp và hàng xuất khẩu. Phát triển công nghiệp địa phương, nhất là tiểu thủ công nghiệp, trọng tâm là cơ khí và sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu bằng nguyên liệu tại chỗ. Đi đôi với đẩy mạnh sản xuất, tích cực thu mua nguồn hàng, bảo đảm cho nhà nước nắm được phần lớn sản phẩm hàng hoá được làm ra trong tỉnh.

Công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, kết hợp chặt chẽ cải tạo nông nghiệp với xây dựng, hoàn thành hợp tác hoá trong năm 1981. Tích cực tiến hành việc phân công lao động, tổ chức lại sản xuất trên địa bàn huyện, xây dựng hệ thống quản lý trong nông, lâm nghiệp. Hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh; tổ chức lại các ngành tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ bằng những hình thức thích hợp. Vận động chuyển phần lớn tiểu thương sang sản xuất, mở rộng nhanh mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, làm tốt công tác quản lý thị trường, ổn định giá cả. Thực hiện đúng chủ trương của Đảng về 5 thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo.

 Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật theo hướng hình thành cơ cấu công-nông-lâm nghiệp của tỉnh và cơ cấu nông-lâm-công nghiệp của huyện trên cơ sở quy hoạch và kế hoạch được phê chuẩn; tăng nhanh cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp. Trước mắt, đầu tư mạnh cho các mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng xuất khẩu, ưu tiên các vùng trọng điểm, đặc biệt chú trọng đầu tư cho khâu thâm canh trong nông nghiệp, công nghiệp chế biến và cơ khí.

Ra sức xây dựng lực lượng vũ trang địa phương và thế trận chiến tranh nhân dân, nhất là ở cơ sở ngày càng vững mạnh, từng bước xây dựng huyện thành pháo đài, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, sản xuất với chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Đẩy mạnh hoạt động vũ trang, truy quét kết hợp với tấn công chính trị làm tan rã địch, nhằm giải quyết cơ bản vấn đề FULRO trong thời gian sớm nhất, ngăn ngừa và đập tan mọi âm mưu và hành động bạo loạn, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị bên trong và sẵn sàng chiến đấu chống xâm lược từ bên ngoài.

Tăng cường công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng, xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng các cấp vững mạnh, phát huy mạnh mẽ vai trò hệ thống chuyên chính vô sản và quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động. Gấp rút củng cố và kiện toàn bộ máy quản lý kinh tế, trước hết chú trọng tăng cường cán bộ cho huyện và cơ sở. Khẩn trương hình thành những tổ chức cần thiết để tham mưu cho Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh về công tác quản lý kinh tế.

Trong thời gian lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng bộ, Tỉnh uỷ tiếp tục tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội IV của Đảng, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương (Khoá IV) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3-1982). Tình hình đất nước và địa phương còn rất nhiều khó khăn trên hầu hết các lĩnh vực, hậu quả chiến tranh để lại chưa khắc phục hết, kẻ thù lại cấu kết tiến hành chiến tranh phá hoại nhiều mặt. Sản xuất chậm phát triển, phân phối lưu thông tiếp tục rối ren, lạm phát phi mã. Trên toàn địa bàn Tây Nguyên nói chung và Lâm Đồng nói riêng bọn FULRO vẫn hoạt động ráo riết… Trong tình đó, Tỉnh uỷ đã kịp thời động viên và phát huy truyền thống đoàn kết của Đảng bộ và nhân dân, nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn, tiếp tục lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng bộ tỉnh và các nghị quyết của Trung ương đạt được một số kết quả có ý nghĩa trên nhiều mặt.

Trên lĩnh vực cải tạo và xây dựng, thiết lập quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, hoạt động sản xuất, kinh doanh trong toàn tỉnh được tổ chức sắp xếp lại theo con đường hợp tác hoá. Trong nông nghiệp đã thu hút 87% số hộ nông dân vào làm ăn tập thể. Các ngành công nghiệp, lâm nghiệp, giao thông vận tải, bưu điện, ngân hàng, thương nghiệp, cung ứng vật tư… cũng tiến hành cải tạo và sắp xếp, tổ chức lại một bước. Vai trò kinh tế khu vực quốc doanh có bước trưởng thành. Đến năm 1980, giá trị tổng sản phẩm khu vực quốc doanh chiếm 25% tổng sản phẩm xã hội. Lực lượng thương nghiệp xã hội chủ nghĩa từng bước làm thay đổi tỷ trọng trong tổng mức bán lẻ của xã hội. Ngành tài chính ngân hàng thực hiện chủ trương tập trung khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, tiếp tục đẩy mạnh tăng gia sản xuất trong các cơ quan, đơn vị nhằm cải thiện đời sống. Ngân sách địa phương cơ bản giữ được thăng bằng thu chi, công tác thu mua nguồn hàng qua mỗi năm đều có tiến bộ.

Nền kinh tế địa phương đang từng bước chuyển dần theo hướng sắp xếp, tổ chức lại theo cơ cấu công-nông-lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh và cơ cấu nông-lâm-công nghiệp trên địa bàn cấp huyện. Công tác đầu tư xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật có nhiều cố gắng. Tổ chức sắp xếp 13.000 lao động tại chỗ và 38.000 lao động từ các tỉnh đến, xây dựng được 31 điểm kinh tế mới, phân bố lại lao động theo hướng tăng cho khu vực sản xuất vật chất; khai hoang được 30.000 ha đất; tu bổ, bảo dưỡng và làm thêm hơn 500 km đường và hàng chục cầu cống; xây dựng được 18 công trình thuỷ lợi. Sản lượng lương thực đã tăng từ 75.000 tấn năm 1979 lên hơn 95.000 tấn năm 1982. Cố gắng duy trì và khai thác thế mạnh về cây công nghiệp và nghề rừng, nhất là cây chè, cà phê, cây thông, tạo được nguồn hàng xuất khẩu và nội tiêu ngày càng lớn, góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách. Hệ thống cơ khí của tỉnh, huyện và nhiều công trình kinh tế, văn hoá, y tế được khôi phục, mở rộng và xây dựng mới, giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động. Do tình hình sản xuất có bước phát triển, tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân đều tăng nên đời sống của nhân dân dần được ổn định. Việc phân phối 9 mặt hàng định lượng cho cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng vũ trang được cung cấp đầy đủ.

Trên lĩnh vực văn hoá, xã hội, Đảng bộ đã lãnh đạo đoàn thể và các ngành liên quan tập trung tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị và giác ngộ cách mạng cho các tầng lớp nhân dân. Do đó, đã tạo được những chuyển biến đáng kể trong việc khắc phục dần các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác. Hệ thống thông tin đại chúng được hình thành và phát triển nhanh từ tỉnh đến cơ sở, góp phần tích cực trong việc tuyên truyền, giáo dục đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Một số công trình văn hoá được xây dựng; công tác nghiên cứu dân tộc học, nghiên cứu lịch sử Đảng bộ địa phương, việc xây dựng bảo tồn, bảo tàng được chú ý hơn; công tác khoa học, kỹ thuật có bước chuyển biến.

Trong ngành giáo dục, phong trào thi đua 2 tốt dạy tốt, học tốt được tiếp tục đẩy mạnh, gắn với thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục và tập trung xây dựng ngành theo hướng giáo dục xã hội chủ nghĩa ở tất cả các ngành học, bậc học, đội ngũ viên phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng; số học sinh qua các năm học đều tăng, trung bình cứ 4 người dân có 1 người đi học; nhiều trường chuyên nghiệp được thành lập, đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề cho hàng ngàn học viên, kịp thời cung cấp nhân lực cho các ngành trong tỉnh. Mạng lưới y tế, hộ sinh phát triển khá nhanh; công tác phòng chống dịch bệnh trong nhân dân có tiến bộ. Công tác thương binh, xã hội và thể dục, thể thao có nhiều cố gắng.

Việc thực hiện chính sách và chăm lo đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số được Đảng bộ quan tâm nhiều hơn nên đời sống kinh tế, văn hoá ở nhiều thôn, buôn có bước phát triển đáng kể.

Công tác quốc phòng-an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang được tăng cường và phát triển. Thế trận an ninh chính trị trên các địa bàn, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tập trung chú ý và sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xảy ra. Chấp hành Chỉ thị 04 của Ban Bí thư Trung ương, Tỉnh uỷ ban hành Chỉ thị số 45-CT/TU, ngày 28-10-1980 về việc phát động quần chúng truy quét FULRO, công tác tấn công chính trị, bóc gỡ, giáo dục cơ sở bên trong của FULRO được đẩy mạnh hơn, nhất là trên những địa bàn trọng điểm các huyện Lạc Dương, Đơn Dương, Đức Trọng, Di Linh…đồng thời kết hợp với lực lượng vũ trang truy quét FULRO ở ngoài rừng. Kết quả của những hoạt động đó đã đẩy lực lượng FULRO vào thế bị động và ngày càng suy yếu. Mặt khác, quân và dân trong tỉnh đã tích cực phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động của các tổ chức chính trị phản động một cách kiên quyết, kịp thời nên tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ngày càng được ổn định.

Công tác xây dựng Đảng trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức đạt được những kết quả quan trọng. Các cấp uỷ đảng được củng cố, qua thực hiện cuộc vận động xây dựng chi bộ, đảng bộ 4 tốt, từng bước đưa sinh hoạt Đảng dần đi vào nề nếp. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức cơ sở đảng được nâng lên rõ nét. Thông qua việc tiến hành công tác phát thẻ đảng viên, tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị kỷ niệm các ngày lễ, học tập các nghị quyết của Đảng, nhận thức, năng lực, phẩm chất đạo đức của đa số đảng viên được nâng lên. Bộ máy chính quyền được củng cố qua các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp. Các phong trào hợp tác hoá, thực hiện nghĩa vụ quân sự, truy quét FULRO… được nhân dân hưởng ứng. Các đoàn thể quần chúng từ tỉnh đến cơ sở được rèn luyện và có bước trưởng thành, tập hợp được đông đảo quần chúng, qua đó quyền làm chủ tập thể của quần chúng được phát huy mạnh mẽ hơn trước.

Những thành quả đạt được thật đáng trân trọng, nhưng so với yêu cầu của tình hình và phương hướng, nhiệm vụ đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IV, lần thứ V của Đảng, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II thì vẫn còn tồn tại những vấn đề lớn chưa giải quyết tốt. Việc đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm là vấn đề trọng tâm đưọc tập trung giải quyết nhưng chưa thật vững chắc, chưa phát huy được các thế mạnh kinh tế tại địa phương. Cơ cấu kinh tế chưa hình thành rõ nét trên địa bàn tỉnh và trên địa bàn cấp huyện, mối quan hệ giữa nông-lâm-công nghiệp chưa kết hợp chặt chẽ, hiệu quả kinh tế thấp; việc phát triển, sắp xếp lại cơ cấu kinh tế chưa gắn với tăng cường, củng cố quan hệ sản xuất và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa. Chưa kịp thời thực hiện các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước để từng bước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Các cơ sở kinh tế quốc doanh chậm được củng cố và phát triển, kinh tế tập thể còn nhiều khó khăn về sản xuất và quản lý. Phát triển kinh tế chưa gắn với khoa học-kỹ thuật. Lĩnh vực phân phối lưu thông đang diễn biến xấu, thị trường tiếp tục rối loạn. Công tác xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện chưa triển khai đầy đủ. Sản xuất và đời sống, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng căn cứ kháng chiến cũ chưa được cải thiện.

Hoạt động văn hoá-văn nghệ, tuyên truyền cổ động, thông tin đại chúng chất lượng hiệu quả còn hạn chế, tính hấp dẫn, tính thiết thực chưa cao, chưa phối hợp đồng bộ trong việc tuyên truyền các nhiệm vụ trọng tâm. Công tác giáo dục phát triển thiếu cân đối giữa các vùng, các ngành học; việc phát triển giáo dục chuyên nghiệp, phổ thông chưa gắn chặt với mục tiêu kinh tế-xã hội và gắn với quy hoạch, kế hoạch đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật. Phong trào thi đua 2 tốt chưa duy trì thường xuyên và rộng khắp. Việc tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng trong nhà trường chưa quan tâm đúng mức. Công tác phòng, chữa bệnh, bảo vệ và rèn luyện sức khoẻ chưa thành phong trào quần chúng rộng rãi; việc khai thác dược liệu, sản xuất thuốc các loại chưa tương xứng với khả năng và tiềm năng của địa phương. Công tác kế hoạch hoá dân số và bảo vệ bà mẹ trẻ em chưa quan tâm đúng mức. Công tác khoa học-kỹ thuật còn nhiều yếu kém.

Xây dựng thực lực cách mạng ở cơ sở, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng tôn giáo để giữ vững quốc phòng, an ninh chưa quan tâm đúng mức. Công tác phát động phong trào quần chúng phối hợp truy quét FULRO làm chưa thường xuyên, liên tục và chưa kết hợp đồng bộ với các hoạt động của lực lượng vũ trang. Do vậy, việc thực hiện nhiệm vụ “giải quyết cơ bản vấn đề FULRO trong năm 1981” theo Nghị quyết số 08-NQ/TU, ngày 10-4-1978 đề ra chưa đạt yêu cầu. Công tác chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân tự vệ ở xã, phường còn buông lỏng. Việc giáo dục lý tưởng và rèn luyện phẩm chất cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang chưa thật tốt, còn để xảy ra những hiện tượng vi phạm về chính sách, làm giảm lòng tin của quần chúng. Nhiều cấp bộ Đảng chưa quan tâm đúng mức việc giáo dục ý thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân; kết hợp xây dựng quốc phòng với kinh tế; kinh tế với quốc phòng; xây dựng hậu phương quân đội, chăm lo đời sống của lực lượng vũ trang, nhất là các đơn vị làm nhiệm vụ ở vùng xa xôi hẻo lánh.

Trong xây dựng Đảng chưa gắn chặt với nhiệm vụ phát triển kinh tế. Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, kịp thời, tính chiến đấu chưa cao; chưa thật nhạy cảm trước những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống; chưa quan tâm đúng mức việc giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân; quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến tận các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên và quần chúng nhân dân. Công tác tổ chức cán bộ chưa bám chắc yêu cầu xây dựng tổ chức bộ máy và đào tạo cán bộ cho cơ sở. Công tác kiểm tra việc chấp hành chủ trương, nghị quyết, Điều lệ Đảng chưa được thường xuyên; việc xem xét và kỷ luật đảng viên chưa kịp thời và chưa thật nghiêm minh. Việc nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao năng lực, trình độ của các cán bộ cơ sở là những mặt yếu nhất hiện nay của công tác xây dựng Đảng nói chung trong toàn Đảng bộ.

Từ những khuyết, nhược điểm trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II, ngoài việc nêu lên những nguyên nhân khách quan, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh cũng đã mạnh dạn chỉ ra những nguyên nhân chủ quan của việc chưa thực hiện được một số vấn đề lớn mà nghị quyết Đại hội II đề ra. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo kể cả trong cấp uỷ viên của đảng bộ chưa nắm vững lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, chưa quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo trong chỉ thị, nghị quyết của Trung ương về xây dựng đất nước trong thời kỳ đầu của giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Không ít cán bộ, đảng viên còn tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám mạnh dạn “bung ra” trong việc tìm phương thức đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống nhân dân. Một số cán bộ lúng túng trong việc xây dựng cơ cấu quản lý kinh tế mới, còn nặng nề theo kiểu hành chính, quan liêu, bao cấp. Việc thanh, kiểm tra, sơ, tổng kết chưa thường xuyên, kịp thời.

Trước tình hình kinh tế-xã hội của đất nước đang ở trong tình trạng hết sức nghiêm trọng, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IV, họp tháng 8-1979 bàn về nhiệm vụ kinh tế cấp bách trước mắt. Hội nghị quyết định: phải khắc phục một bước cơ chế kế hoạch hoá tập trung và bao cấp; kết hợp kế hoạch hoá với quan hệ thị trường; duy trì ba thành phần kinh tế ở miền Nam; kết hợp ba lợi ích là tập thể, cá nhân và xã hội… Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu, tháng 9-1979, Chính phủ ra quyết định về việc tận dụng đất đai nông nghiệp, khai hoang phục hoá được miễn thuế. Tháng 10-1979, Chính phủ tiếp tục công bố quyết định về việc xoá bỏ các trạm kiểm soát “ngăn sông, cấm chợ”. Ngày 23-6-1980, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 26-NQ/TW về cải tiến công tác phân phối, lưu thông và cả nước tiến hành cải cách giá-lương lần thứ nhất năm 1981-1982. Ngày 13-01-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị 100 cho phép thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Chính phủ ban hành Quyết định số 25/CP ngày 21-1-1981 về quyền tự chủ trong sản xuất-kinh doanh và tự chủ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh; Quyết định số 26/CP, ngày 21-1-1981 về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh của Nhà nước… Các chủ trương mới trên được Đảng và Nhà nước ban hành, tạo điều kiện “cho sản xuất bung ra”, bước đầu tạo khí thế mới, tiến bộ mới trong suy nghĩ, cách làm của toàn Đảng, toàn dân, đã được cán bộ, đảng viên, nhân dân cả nước hào hứng đón nhận. Đây là những tiền đề làm nền móng cho sự hình thành đường lối đổi mới của Đảng ta sau này.

Thông qua việc triển khai học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, những chủ trương mới của Đảng đã nhanh chóng đi vào cuộc sống của cán bộ, đảng viên, nhân dân Lâm Đồng.

Trên mặt trận nông nghiệp, chủ trương của Đảng và Nhà nước khuyến khích phong trào khai hoang, phục hoá, tận dụng đất đai để mở rộng sản xuất được nông dân và kể cả một bộ phận cán bộ, công nhân viên trong tỉnh hưởng ứng mạnh mẽ nhằm cải thiện đời sống vốn đang rất khó khăn. Quyết định về việc xoá bỏ các trạm kiểm soát “ngăn sông, cấm chợ” tháng 10-1979 của Chính phủ được nhân dân trong tỉnh hồ hởi đón nhận và tự giác thực hiện, làm cho hàng hoá nhất là sản phẩm nông nghiệp lưu thông trên thị trường được thông thoáng hơn, kích thích người nông dân phát triển sản xuất. Chỉ thị 100-CT/TW, ngày 13-01-1981 của Ban Bí thư về việc thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp, tạo một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp của địa phương Lâm Đồng. Chỉ thị nêu rõ: Khuyến khích hơn nữa lợi ích chính đáng của người lao động và làm cho mọi người tham gia các khâu trong quá trình sản xuất, quản lý của hợp tác xã đều thực sự gắn bó với sản phẩm cuối cùng, do đó mà đưa hết nhiệt tình và khả năng ra lao động sản xuất và xây dựng củng cố hợp tác xã. Được tiếp cận qua học tập, quán triệt nghị quyết, qua tuyên truyền của các phương tiện thông tin đại chúng, Chỉ thị của Đảng đã được các tầng lớp nhân dân trong tỉnh bàn luận sôi nổi. Sau khi Tỉnh uỷ triển khai học tập, quán triệt, Chỉ thị 100 được tổ chức thực hiện và lan toả nhanh chóng xuống cơ sở, biến thành phong trào quần chúng sâu rộng, thu hút đa số nông dân trong tỉnh hăng hái hưởng ứng và tích cực tham gia thực hiện. Sau 6 tháng triển khai Chỉ thị, ngày 24-6-1981, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tổ chức hội nghị sơ kết đã đánh giá: Những nơi làm đúng tinh thần Chỉ thị 100 của Ban Bí thư có tác dụng kích thích lao động gắn được trách nhiệm của người lao động với sản phẩm của họ làm ra, thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế, nâng cao các mặt công tác quản lý, quan hệ sản xuất được củng cố…. Căn cứ vào tinh thần hội nghị sơ kết, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ban hành Chỉ thị số 28-CT/TU nhằm nhắc nhở các địa phương, cơ sở và ban, ngành liên quan trong tỉnh cần nắm vững tình hình đặc điểm của từng địa bàn và trên cơ sở các hợp tác xã hay tập đoàn sản xuất đã được củng cố, tiến hành áp dụng khoán theo tinh thần Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, tránh tình trạng phát triển hình thức khoán một cách tràn lan, không đúng với tinh thần nội dung Chỉ thị 100 và làm xói mòn quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Tổng kết việc thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương và Chỉ thị 28 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Lâm Đồng về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, Tỉnh uỷ rút ra một số mặt tích cực và hạn chế cơ bản trong quá trình triển khai thực hiện:

Mặt tích cực, việc thực hiện “khoán mới” đã kích thích người nông dân hăng hái sản xuất, chủ động trong công việc, tích cực chăm sóc, thâm canh nên năng suất và sản lượng cây trồng đều tăng; tận dụng được thời gian, nguồn lao động và đất đai; việc đóng thuế, bán sản phẩm cho Nhà nước ở nhiều cơ sở làm nhanh gọn hơn trước.

Mặt hạn chế, tình trạng giấu diện tích, hạ thấp năng suất, sản lượng để hưởng lợi diễn ra khá phổ biến. Một số diện tích đất, ruộng để lại cho xã viên mượn, làm ngoài kế hoạch đã tạo nên tình trạng đất đai, lao động bị phân tán, không tập trung cho công việc của tập thể. Một số hợp tác xã, tập đoàn sản xuất có biểu hiện khoán trắng và thu tô, có nơi giao trả ruộng đất và tư liệu sản xuất cho chủ cũ để họ tự làm rồi nộp tô cho hợp tác xã, tập đoàn sản xuất.

Lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, việc chỉ đạo thực hiện các Quyết định 25/CP, 26/CP, ngày 21-1-1981 của Chính phủ về quyền tự chủ trong sản xuất-kinh doanh và tự chủ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh, mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh của Nhà nước được các cấp, các ngành và cơ sở tích cực hưởng ứng triển khai rộng rãi. Nhiều đơn vị đã xây dựng 3 phần kế hoạch và thực hiện lương khoán sản phẩm như: áp dụng các hình thức khoán cho tập thể, tổ, đội, ca, kíp hay cho từng người lao động; khoán từng sản phẩm, từng công việc, từng hạng mục công trình, từng chuyến xe…; các ngành thực hiện chính sách thưởng theo doanh số, mức độ hoàn thành kế hoạch. Qua triển khai thực hiện các Quyết định 25/CP, 26/CP của Chính phủ, những đơn vị nào xây dựng và thực hiện phần kế hoạch và áp dụng chế độ lương khoán, tiền thưởng một cách đúng đắn đều có tác dụng tích cực, đa số đạt và vượt kế hoạch được giao, mức thu nhập và đời sống của công nhân được tăng lên, có nơi thu nhập của công nhân tăng gấp 2,3 lần so với lương cơ bản, tiết kiệm được nguyên, nhiên, vật liệu, các mặt tiêu cực giảm rõ rệt.

Tuy nhiên, những đơn vị thực hiện tốt các Chỉ thị 25/CP, 26/CP của Chính phủ chưa nhiều, một số nơi còn dè dặt, chưa dám mạnh dạn thực hiện. Nhiều đơn vị việc xây dựng và thực hiện 3 phần kế hoạch chưa thật sát đúng, còn tràn lan, không có cơ sở vững chắc. Một số cơ sở còn nặng kế hoạch ba, chủ yếu lo cho lợi ích cá nhân. Trong thực hiện Quyết định 26/CP, việc xây dựng các định mức kinh tế - kỹ thuật chưa thật tiên tiến, hợp lý; các biện pháp quản lý chất lượng sản phẩm chưa chặt chẽ; trình độ tổ chức, quản lý trong nhiều xí nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện chế độ khoán và thưởng.

Trên lĩnh vực phân phối, lưu thông, Tỉnh uỷ tổ chức học tập, quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 23-6-1980 của Bộ chính trị về việc cải tiến công tác phân phối, lưu thông và triển khai thực hiện cải cách giá-lương-tiền lần thứ nhất năm 1981-1982. Nét nổi bật của chủ trương này là thực hiện cơ chế hai giá và điều chỉnh lương, trong thời gian đầu đảm bảo việc cung cấp kịp thời, đầy đủ các mặt hàng phân phối theo định lượng cho cán bộ, công nhân viên và lực lượng vũ trang, đời sống của các đối tượng hưởng lương có giảm bớt khó khăn.

Mặc dù đã tập trung cố gắng đẩy mạnh việc cải tiến phân phối, lưu thông nhưng hiệu quả vẫn đạt thấp, tình hình chậm được cải thiện, lạm phát trầm trọng thêm, giá cả thị trường tăng nhanh, đồng lương mất giá… Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh (Khoá II) trình Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ III nêu rõ: “Mặt trận phân phối lưu thông đang diễn biến xấu, thị trường tiếp tục rối loạn. Sản xuất và đời sống chưa ổn định; lực lượng tư thương phát triển mạnh, tìm cách nâng giá, ép giá, tranh mua những sản phẩm chính với các đơn vị quốc doanh và tập thể. Trong khi đó, chúng ta buông lỏng công tác quản lý thị trường, không kiên quyết trừng trị bọn đầu cơ, buôn lậu, gian thương, móc ngoặc…”.

Thực hiện những chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, ý thức tự giác của người lao động được nâng cao, tác động tốt đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của địa phương. Nhờ vậy, sản xuất từng bước có phát triển, đời sống các tầng lớp nhân dân đã phần nào giảm bớt khó khăn. Tuy nhiên, tình hình vẫn còn nhiều yếu tố mất ổn định. Nghị quyết Đại hội lần thứ III Đảng bộ tỉnh đã đánh giá: Trên nhiều lĩnh vực, nhất là về kinh tế, chúng ta đang mất cân đối nghiêm trọng: lương thực còn thiếu, các thế mạnh kinh tế chưa đủ điều kiện phát huy mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế chậm hình thành, cơ chế quản lý chưa được đổi mới; mặt trận phân phối, lưu thông đang có nhiều diễn biến xấu…. Nền kinh tế của cả nước cũng như địa phương vẫn chìm sâu vào khủng hoảng. Những hạn chế trên trước hết là do khả năng lãnh đạo và năng lực quản lý của ta còn nhiều mặt hạn chế, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa mạnh dạn “bung ra” tìm phương kế làm ăn. Nhưng nguyên nhân sâu xa còn do những chủ trương đổi mới lúc bấy giờ vẫn trong giai đoạn thử nghiệm, tìm tòi, mang tính chất từng mặt, từng phần, chưa triệt để, toàn diện, việc thực hiện của địa phương cũng chỉ là góp phần trải nghiệm nhằm tổng kết thực tiễn để tiếp tục hoàn chỉnh thêm đường lối đổi mới của Đảng.

II. PHÁT HUY TINH THẦN TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN, ĐẠT NHIỀU KẾT QUẢ MỚI VỀ KINH TẾ-XÃ HỘI

Từ ngày 27 đến 31-3-1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng được tổ chức ở Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã tổng kết tình hình từ sau Đại hội IV, đề ra nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu về kinh tế -xã hội của nhiệm kỳ 1981-1985 và những năm 80, đề ra hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã phân tích những khó khăn to lớn của tình hình đất nước, phê phán tư tưởng nóng vội đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô và quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp, chậm thay đổi các chính sách, chế độ, làm kìm hãm sản xuất; bảo thủ trì trệ trong tổ chức thực hiện. Đại hội điều chỉnh một bước về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, xác định chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội xác định: Tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng trong một cơ cấu công-nông nghiệp hợp lý. Đại hội nhấn mạnh việc xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, coi đó là vấn đề có ý nghĩa quyết định để hoàn thành những nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trên.

Chấp hành chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, từ ngày 24 đến 28-3-1983, tại thành phố Đà Lạt, Đảng bộ Lâm Đồng tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ III. Dự Đại hội có 277 đại biểu thay mặt hơn 4.800 đảng viên của toàn Đảng bộ.

Đại hội kiểm điểm, đánh giá quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II, quán triệt và cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho thời kỳ 1983-1985 và các năm sau là: Phát huy cao độ tinh thần tự lực, tăng cường khối đoàn kết các dân tộc, xây dựng chế độ làm chủ tập thể, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, lấy cách mạng khoa học-kỹ thuật làm then chốt. Phát triển kinh tế và văn hoá lên một bước, sắp xếp và tổ chức lại sản xuất gắn với xây dựng và cải tạo; phát triển lương thực, thực phẩm; phát huy thế mạnh về rừng, cây công nghiệp và du lịch; gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường; đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu và hàng tiêu dùng; xây dựng cơ cấu kinh tế công-nông-lâm nghiệp, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện. Tăng cường sự nghiệp quốc phòng, an ninh và hệ thống chuyên chính vô sản, phát triển thực lực cách mạng, thiết lập và phát huy đầy đủ cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Xây dựng Lâm Đồng thành một tỉnh mạnh về chính trị, phát triển về kinh tế, vững về an ninh quốc phòng, tiến bộ về văn hoá, xã hội.

Đại hội đã đề ra 4 mục tiêu kinh tế-xã hội trong ba năm 1983-1985 cho Đảng bộ và nhân dân tỉnh phấn đấu thực hiện.

1. Đáp ứng nhu cầu thiết yếu về đời sống: lương thực, thực phẩm chủ yếu, ăn, mặc, ở, đi lại, thuốc chữa bệnh, học hành cho nhân dân. Phấn đấu năm 1983 đạt 110 ngàn tấn, đến năm 1985 đạt từ 120 đến 130 ngàn tấn lương thực.

2. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Tập trung xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật phục vụ sản xuất lương thực, cây công nghiệp và công nghiệp chế biến các sản phẩm thế mạnh xuất khẩu; đưa nguồn thu nhập từ xuất khẩu thành nguồn thu lớn cho ngân sách, phấn đấu đạt từ 6 đến 8 triệu rúp năm 1983. Mở rộng du lịch, tích cực tạo mọi điều kiện để ngành du lịch trở thành một ngành kinh doanh toàn diện. Phát triển sản xuất cơ khí, vật liệu xây dựng, giao thông, chuẩn bị cho những công trình của kế hoạch 5 năm. Phân cấp, giao đất giao rừng cho huyện và hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và tổ chức định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số. Đưa phần lớn đồng bào dân tộc vào sản xuất, kinh doanh nghề rừng. Dãn dân nơi quá đông và tiếp nhận dân từ ngoài tỉnh đến xây dựng, mở rộng thêm vùng kinh tế mới. Thực hiện phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “Trung ương và địa phương cùng làm”.

3. Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Củng cố vai trò kinh tế quốc doanh. Phấn đấu đến năm 1985, hoàn thành căn bản hợp tác hoá nông nghiệp, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa nắm trọn khâu bán buôn và chi phối 50-60% thị trường bán lẻ.

4. Xây dựng quốc phòng toàn dân, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tăng cường đoàn kết dân tộc. Phát huy sức mạnh của hệ thống chuyên chính vô sản, ra sức xây dựng và phát triển thực lực cách mạng ở cơ sở. Kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế với quốc phòng; xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, kiên quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù. Sớm giải quyết cơ bản vấn đề FULRO, chủ động ngăn chặn và làm thất bại mọi hoạt động của bọn phản động.

Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gốm 43 đồng chí. Ban chấp hành bầu Ban thường vụ Tỉnh uỷ gồm 12 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Trung Tín được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ; đồng chí Huỳnh Minh Nhựt làm Phó Bí thư thường trực, đồng chí Nguyễn Xuân Du làm Phó bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội ngày 12-5-1983, Tỉnh uỷ ra Nghị quyết số 01-NQ/TU về chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù.

Nghị quyết nhận định kẻ thù tiến hành kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, quân sự, ngoại giao và chống phá ta từ nhiều hướng, bằng nhiều lực lượng, nhiều hình thức, nhiều thủ đoạn hết sức thâm độc. Lâm Đồng nằm trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên, là một trong những trọng điểm để địch chống phá. Kẻ địch sử dụng FULRO làm lực lượng vũ trang xung kích chống phá, chú trọng tập trung phá hoại ta về kinh tế; tăng cường phối hợp hoạt động gián điệp và hoạt động của bọn phản động lợi dụng tôn giáo.

Tỉnh uỷ xác định chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù là một nhiệm vụ hết sức phức tạp, quyết liệt và lâu dài, là nhiệm vụ chính trị quan trọng và cấp bách của tỉnh. Đảng bộ đề ra những biện pháp kịp thời, sát đúng, ngăn chặn không cho địch thực hiện ý đồ của chúng; tập trung lực lượng, bằng biện pháp tổng hợp giải quyết vấn đề FULRO ở một số địa bàn trọng điểm vùng dân tộc, đẩy chúng vào thế suy yếu nghiêm trọng về nhiều mặt. Đẩy mạnh công tác bảo vệ kinh tế, chống gián điệp biệt kích, chống tiêu cực trong nội bộ và ngoài xã hội, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ cấp bách của Đảng bộ.

Tuy nhiên, công tác đấu tranh chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, chúng ta còn nhiều khuyết điểm. Đảng bộ và nhân dân chưa nhận thức sâu sắc về âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù nên việc giải quyết vấn đề FULRO không được tiến hành liên tục, triệt để; trong thực hiện thiếu đồng bộ, chưa làm chuyển biến thật sự ở cơ sở nên kết quả hạn chế; còn xem nhẹ địch phá hoại về kinh tế; chưa chú ý đúng mức lĩnh vực tư tưởng-văn hoá. Cơ sở xã phường chưa đủ sức để thực hiện nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới.

Nghị quyết đề ra những nhiệm vụ và công tác trọng tâm: ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế-xã hội mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III đã đề ra; kết hợp chặt chẽ xây dựng và phát triển kinh tế, giải quyết đời sống với công tác xây dựng Đảng; phát triển sâu rộng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

Nghị quyết xác định công tác trọng tâm hàng đầu là đấu tranh giải quyết cơ bản FULRO, xây dựng toàn diện vùng dân tộc thiểu số; lấy phát động quần chúng đứng lên làm chủ, xây dựng và bảo vệ buôn làng, xây dựng thực lực cách mạng là chính, kết hợp với đẩy mạnh hoạt động lực lượng vũ trang, truy quét địch. Gắn nhiệm vụ giải quyết FULRO với xây dựng, tạo sự chuyển biến toàn diện về kinh tế, văn hoá, xã hội.

Cùng với nhiệm vụ trên, Đảng bộ, chỉ đạo tăng cường các biện pháp bảo vệ kinh tế, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, xây dựng, củng cố vững chắc trận địa tư tưởng trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục chính trị, tư tưởng với công tác chống chiến tranh tâm lý, đấu tranh chống gián điệp, bọn phản động và các loại tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

Về biện pháp tổ chức và chỉ đạo thực hiện, các cấp uỷ Đảng, các ngành phải nắm vững tư tưởng chỉ đạo của Trung ương là bảo đảm sự lãnh đạo tập trung toàn diện của cấp uỷ Đảng, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, lấy lực lượng quân đội, công an hỗ trợ đắc lực trong cuộc đấu tranh; kết hợp xây dựng với bảo vệ kinh tế; xây dựng chính trị tư tưởng với củng cố tổ chức; phải làm chuyển biến tốt mọi mặt ở các địa bàn trọng điểm.

Ngày 17 và 18-7-1983, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ họp ra Nghị quyết 06-NQ/TU về chủ trương, biện pháp thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội năm 1983. Nghị quyết đề ra chủ trương, biện pháp cho các ngành nông nghiệp, phân phối lưu thông, xây dựng cơ bản, công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, văn hoá-xã hội, phấn đấu thực hiện hoàn thành nhiệm vụ năm 1983. Về nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp toàn diện, coi đây là mặt trận hàng đầu, khai thác tốt nhất tiềm năng lao động và đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm giải quyết từng bước vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm; phát triển cây công nghiệp ngắn và dài ngày tạo nguyên liệu cho công nghiệp, đẩy mạnh chăn nuôi.

Về lâm nghiệp, đảm bảo kế hoạch khai thác và trồng rừng; từng bước giao đất, giao rừng cho hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Về công nghiệp, củng cố và phát triển các tổ hợp, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp gắn với công tác cải tạo tiểu thương. Củng cố cơ sở sản xuất công nghiệp quốc doanh; phát triển công nghiệp chế biến nông-lâm sản và công nghiệp hàng tiêu dùng. Củng cố, sắp xếp lại cơ sở công nghiệp tiểu thủ công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp. Từng bước hình thành cơ cấu nông-lâm-công nghiệp ở huyện, cơ cấu nông-công-lâm nghiệp ở tỉnh.

Lĩnh vực phân phối lưu thông, thương nghiệp thông qua hợp đồng kinh tế hai chiều để thu mua trà, cà phê, lương thực, đậu. Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để xây dựng thuỷ lợi nhỏ. Hoàn thành cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp với hình thức phổ biến là hợp tác xã với quy mô thích hợp cho từng loại hình sản xuất ở từng vùng. Cải tạo công thương nghiệp, sắp xếp lại tiểu thương và chuyển một bộ phận tiểu thương sang sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Phát triển các hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng.

Đẩy mạnh phong trào xây dựng nếp sống mới, truy quét văn hoá phẩm đồi truỵ bài trừ hủ tục mê tín dị đoan, chống địch phá hoại tư tưởng. Xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, nâng cao tính chiến đấu của các hoạt động thông tin đại chúng.

Dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh phối hợp với các ngành, các cấp trong tỉnh đã tổ chức thực hiện kế hoạch năm 1983 với nhiều thành quả trên các lĩnh vực. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn tinh thần Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng bộ đã vận dụng sáng tạo, đề ra những nhiệm vụ, giải pháp đúng đắn với những bước đi, cách làm phù hợp trong việc tổ chức lại sản xuất, đổi mới quản lý kinh tế của hợp tác xã, tập đoàn sản xuất thực hiện có hiệu quả cơ chế «3 khoán». Do đó đã thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, năng suất tăng nhanh từ diện tích sản xuất lương thực 12000 ha, với sản lượng 27000 ngàn tấn năm 1983 tăng lên 13.500 ha với 30.500 tấn lương thực năm 1984. Cây công nghiệp dài và ngắn ngày đều phát triển khá. Đời sống của xã viên ngày càng được cải thiện và làm tròn nghĩa vụ với nhà nước. Trong thời kỳ 1981-1984, các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất đã vươn lên sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Trong đó hợp tác xã Phú Hội (huyện Đức Trọng) xứng đáng là một hợp tác xã tiêu biểu trong thực hiện chính sách mới. Ngày 29-8-1985 xã Phú Hội được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng lao động trong thời kỳ thực hiện cơ chế khoán mới trong nông nghiệp theo tinh thần Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, mở đầu cho bước chuyển biến mới trong lĩnh vực nông nghiệp, thể hiện được vai trò nông nghiệp là mặt trận hàng đầu.

Trong nông nghiệp, các huyện, thị, thành phố Đà Lạt tiến hành quy hoạch lại đất đai và cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tổ chức lại sản xuất, khoán sản phẩm theo Chỉ thị 100, áp dụng khoa học-kỹ thuật vào sản xuất. Sản lượng lương thực quy thóc đạt 105.000 tấn, tăng 25.139 tấn so với năm 1981 và 7.832 tấn so với năm 1982. Năng suất bình quân trên 1ha gieo trồng hàng năm đều tăng. Năm 1982 đạt 18,49 tạ/ha; năm 1983 đạt 19,2 tạ/ha. Một số hợp tác xã như Phú Hội (Đức Trọng), Lạc Xuân, Lạc Lâm (Đơn Dương) năng suất lúa từ 40-45 tạ/ha, cá biệt, 60 tạ/ha. Cây rau đạt 40.000 tấn/năm 1983, tăng 13,8% so với năm 1982.

Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất lương thực, cây công nghiệp tăng cả về diện tích và sản lượng. Cây mía tăng từ 178 ha/1981 lên 996 ha/năm 1983; sản lượng tăng từ 8.755 tấn/1981 lên 41.255 tấn/1983, cây dâu tằm tăng về diện tích. Phong trào làm thuỷ lợi nhỏ phát triển, góp phần vào việc tăng năng suất cây trồng.

Chăn nuôi gia đình tiếp tục phát triển, đàn trâu, bò, gia cầm đều tăng. Ngành lâm nghiệp năm 1983 trồng được 1.285 ha rừng, tăng 723 ha so với năm 1982.

Về sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, giá trị sản lượng tăng 7,2% so với năm 1982. Các sản phẩm trà, cà phê, đá các loại, gỗ tròn và gỗ xẻ đều tăng so với năm 1982.

Điện lực đảm bảo cung cấp điện phục vụ sản xuất và đời sống. Sản lượng điện sản xuất vượt 6,2% so với kế hoạch. Ngành bưu điện đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt.

Ngành giao thông vận tải sắp xếp lại sản xuất theo tinh thần Nghị quyết 166 của Hội đồng Bộ trưởng, đảm bảo được yêu cầu chủ yếu về vận tải hành khách và hàng hoá trong tỉnh.

Về xây dựng cơ bản, đã tập trung vốn đầu tư và đẩy mạnh tiến độ thi công các công trình trọng điểm là nhà máy nước Suối vàng, nhà máy ươm tơ Bảo Lộc, trạm thuỷ điện Lộc Phát. Theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để xây dựng đường giao thông nông thôn và một số công trình công cộng. Tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 1983 là 137.180.000đ.

Năm 1983, tỉnh tiếp nhận đồng bào kinh tế mới của 4 tỉnh Nghĩa Bình, Bình Trị Thiên, Hà Nam Ninh, Hà Sơn Bình với tổng số 1.372 hộ gồm 6.534 khẩu và tổ chức định canh, định cư cho 1.080 hộ đồng bào dân tộc với 5.120 khẩu.

Trên mặt trận phân phối lưu thông, mạng lưới thương nghiệp các huyện, thị được củng cố, sắp xếp lại. Công tác quản lý thị trường được chấn chỉnh, trước hết là các địa bàn trọng điểm là Đà Lạt, Bảo Lộc, Đức Trọng. Ngành nội thương thu mua và nắm nguồn hàng tổng giá trị vượt 21% kế hoạch và tăng 45% so với năm 1982. Mạng lưới hợp tác xã mua bán chiếm 35% doanh số bán lẻ của toàn ngành thương nghiệp. Nhờ nắm nguồn hàng tốt nên thương nghiệp đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu đời sống và phục vụ sản xuất, thực hiện đủ nghĩa vụ cho Nhà nước.

Kinh doanh xuất nhập khẩu đảm bảo được kế hoạch, với các mặt hàng chủ yếu trà, cà phê; riêng trà vượt kế hoạch 115,5 tấn.

Ngành du lịch và dịch vụ được tăng cường cơ sở vật chất-kỹ thuật và nhân lực, kinh doanh vượt kế hoạch, góp phần tăng thu ngân sách.

Ngành tài chính tăng cường quản lý thu chi. Tổng thu ngân sách tỉnh năm 1983 vượt kế hoạch Trung ương giao 49%, vượt 22% kế hoạch phấn đấu của địa phương; đảm bảo đủ nguồn chi và có kết dư ngân sách. Hoạt động ngân hàng trong năm 1983 đã góp phần tích cực đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống. Vốn huy động tiền gởi tiết kiệm xã hội chủ nghĩa vượt 24% kế hoạch và tăng 74,5% so với năm 1982. Mạng lưới hợp tác xã tín dụng được xây dựng và bước đầu hoạt động có hiệu quả.

Hoạt động khoa học-kỹ thuật tuy còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ, nhưng Ban khoa học-kỹ thuật bước đầu phối hợp với các ngành nông-lâm-công nghiệp lập chương trình nghiên cứu ứng dụng, phục vụ sản xuất.

Sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em được chú trọng đẩy mạnh. Các hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp, phong trào văn nghệ quần chúng, công tác thông tin cổ động, triển lãm giáo dục truyền thống, xuất bản sách báo đã góp phần vào việc tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Công tác xây dựng, củng cố tổ chức ngành và đào tạo cán bộ được quan tâm.

Thực hiện nghị quyết về cải cách giáo dục của Bộ Chính trị, ngành giáo dục tăng cường công tác bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức xã hội chủ nghĩa cho đội ngũ giáo viên. Phong trào thi đua trong ngành được đẩy mạnh, số học sinh tăng. Ngành giáo dục cùng với các ngành và địa phương thực hiện có hiệu quả phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong việc xây dựng cơ sở vật chất trường học.

Ngành y tế đẩy mạnh công tác vệ sinh phòng bệnh. Mạng lưới y tế xã phường được xây dựng và củng cố; 2/3 số cơ sở đã đảm bảo được nhiệm vụ khám chữa bệnh tuyến một cho nhân dân. Chất lượng khám và điều trị nâng lên. Phong trào nuôi trồng dược liệu phát triển và chế biến thành công một số mặt hàng có giá trị từ nguồn dược liệu địa phương. Công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ em có tiến bộ. Tỷ lệ tăng dân số năm 1983 giảm 0,2% so với năm 1982. Số trẻ vào mẫu giáo và nhà trẻ tăng lên.

Công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, cán bộ hưu trí được thực hiện đầy đủ. Công tác cứu tế xã hội được giải quyết kịp thời.

Năm 1983, thực hiện Nghị quyết 03-NQ/TW của Bộ chính trị, Nghị quyết 01-NQ/TU của Tỉnh uỷ, Nghị quyết 128 của Hội đồng bộ trưởng, công tác an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được triển khai mạnh mẽ trong các ngành, các cấp. Tinh thần cảnh giác cách mạng được nâng lên. Các cơ quan, đơn vị đều có chương trình hành động bảo vệ cơ quan, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa. Công tác truy quét FULRO được đẩy mạnh, khiến chúng lâm vào thế bị động, suy yếu. Bọn phản động, tội phạm hình sự, lưu manh, đầu cơ buôn lậu đều bị giám sát chặt chẽ và kiên quyết trừng trị. Số vụ trọng án năm 1983 giảm 32% so với năm 1981. Phong trào làm theo 6 điều Bác Hồ dạy trong công an, công tác xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân được đẩy mạnh. Công tác tuyển quân đạt 115% kế hoạch. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành thanh tra, toà án, viện kiểm sát, công an đã góp phần ngăn chặn mặt tiêu cực trong đời sống kinh tế-xã hội. Các phòng, ban chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện được sắp xếp lại theo Nghị định 86 của Hội đồng bộ trưởng.

Ngày 25-9-1983, Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 3 (Khoá III) ra Nghị quyết 07-NQ/TU về những vấn đề cấp bách về tư tưởng và tổ chức bảo đảm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ kinh tế-xã hội trong thời gian trước mắt.

Đánh giá tình hình kinh tế-xã hội và kiểm điểm sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ về tư tưởng và tổ chức từ sau Đại hội V của Đảng đến tháng 9-1983, Nghị quyết nhận định, mặc dù trong hoàn cảnh chung có nhiều khó khăn, nền kinh tế còn nhiều mặt mất cân đối lớn, nhưng toàn Đảng bộ đã cố gắng vươn lên, vượt qua thử thách, giành được những thành tích lớn trên một số lĩnh vực, trong đó có những thành tích có ý nghĩa quan trọng. Chúng ta có khả năng từng bước cân đối được nhu cầu lương thực, đồng thời phát huy vững chắc thế mạnh về kinh tế theo Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng bộ tỉnh đề ra.

Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa cao, chưa đều, một số mặt cơ bản thiếu vững chắc. Trong nông nghiệp, lao động và đất đai chưa được quản lý và sử dụng tốt. Các đơn vị kinh tế quốc doanh, tập thể còn nhiều mặt yếu kém, lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xây dựng và lưu thông phân phối còn nhiều trì trệ; công tác xuất khẩu chuyển biến chậm. Vấn đề cấp bách, nóng bỏng có tính bao trùm chi phối đến các mặt công tác khác, đó là những yếu kém, mất trật tự trên mặt trận phân phối lưu thông. Thị trường trong tỉnh rối loạn, gây trở lực lớn đối với đời sống kinh tế-xã hội và gây tác hại xấu đến tư tưởng nội bộ, an ninh chính trị, quốc phòng. Sự yếu kém thể hiện ở quan điểm kinh doanh đơn thuần, chạy theo doanh số và thị trường, nhà nước không nắm được hàng hoá sản xuất trong xã hội; thương nghiệp xã hội chủ nghĩa mỏng, không chi phối được thị trường, không đủ yếu tố cạnh tranh...

Nghị quyết nêu những vấn đề cấp bách về tư tưởng, tổ chức và chương trình hành động cụ thể của Đảng bộ. Cấp bách nhất là tập trung sức làm chuyển biến thực sự mặt trận phân phối lưu thông. Từng bước vươn lên nắm độc quyền thị trường lương thực. Xoá bỏ tư sản thương nghiệp; đưa thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán vươn lên làm chủ, chi phối thị trường; đưa hàng hoá đến tận tay người tiêu dùng, đặc biệt phục vụ tốt hơn những mặt hàng thiết yếu đối với vùng đồng bào dân tộc, vùng căn cứ kháng chiến cũ. Củng cố, tăng cường hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Củng cố hợp tác xã mua bán và gắn với hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tín dụng. Khẩn trương cải tạo và xây dựng các ngành hàng chủ yếu. Ngành chè, cà phê, nhà nước thống nhất quản lý và thu mua, chế biến, phân phối. Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa vươn lên nắm độc quyền thị trường lương thực và thực phẩm, chuyển phần lớn tiểu thương sang làm đại lý bán lương thực cho quốc doanh và một bộ phận chuyển sang kinh doanh ngành nghề khác.

Trong khi tập trung giải quyết những yêu cầu chủ yếu trên mặt trận phân phối lưu thông, đồng thời chú ý triển khai một số vấn đề cấp bách trên mặt trận sản xuất. Về nông nghiệp, tận dụng lao động và đất đai, giống cây trồng cho vụ Đông-Xuân và Hè-Thu 1983-1984. Về lâm nghiệp, tăng cường công tác bảo vệ rừng, hoãn các hợp đồng khai thác gỗ ngoài kế hoạch. Tiếp tục khảo sát cùng với các huyện, thành phố, các ngành liên quan để xây dựng phương án sắp xếp lại các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Củng cố các cơ sở kinh tế quốc doanh; gắn công tác cải tạo thương nghiệp và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp với yêu cầu phục vụ nhiệm vụ cấp bách về phân phối lưu thông. Đẩy mạnh xuất khẩu gắn với trồng cây công nghiệp ngắn ngày, khai thác lâm sản và chế biến trà, cà phê. Củng cố ngành du lịch phục vụ khách nội địa và chuẩn bị đón khách nước ngoài.

Tăng cường giáo dục cán bộ, nhân dân về cuộc đấu tranh giữa hai con đường và chống kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, giáo dục lý tưởng, truyền thống, phẩm chất đạo đức và lối sống cho cán bộ, đảng viên, nhân dân. Xây dựng nếp sống mới, gia đình văn hoá mới, chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống kinh tế-xã hội. Tiếp tục công cuộc cải cách giáo dục.

Về an ninh quốc phòng, thực hiện Nghị quyết 01-NQ/TU của Tỉnh uỷ về chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù; tạo chuyển biến thực sự về tư tưởng, tổ chức trong lực lượng vũ trang; nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng.

Nhiệm vụ cấp bách của công tác xây dựng Đảng là phải đảm bảo yêu cầu tăng cường xây dựng tổ chức cơ sở Đảng; xây dựng nội bộ, trước hết là xây dựng những chức danh chủ chốt ở cơ sở vững mạnh về tư tưởng, trong sạch về chính trị.

Từ ngày 3 đến 10-12-1982, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và ra nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế-xã hội năm 1983 và mức phấn đấu đến năm 1985 về đời sống. Yêu cầu của Trung ương là tập trung giải quyết nhu cầu ăn và mặc; về xây dựng, hoàn thiện một số công trình quan trọng và đưa vào sử dụng; về cải tạo xã hội chủ nghĩa, kiện toàn và nâng cao chất lượng của kinh tế quốc doanh, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp; về quốc phòng an ninh là tích cực đề cao cảnh giác, tăng cường quốc phòng toàn dân và đảm bảo các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch.

Dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, các huyện, thành tích cực triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, năm 1984 đã đạt nhiều thành quả trên các lĩnh vực kinh tế-văn hoá-xã hội.

Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, sản xuất lương thực đã giành được thắng lợi tương đối toàn diện. Sản lượng lương thực quy thóc năm 1984 đạt 126.766 tấn, tăng 20,4% so với năm 1983, bình quân đầu người đạt 260 kg/năm. Tổng diện tích gieo trồng cây lương thực đạt 53.142 ha, tăng 2.542 ha so với năm 1983. Một số địa phương chú trọng tăng hệ số sử dụng ruộng đất, huyện Đạ Huoai nâng diện tích sản xuất hai vụ lúa từ 300 ha năm 1983 lên 1.260 ha năm 1984. Để tăng nhanh sản lượng lương thực, các huyện Đơn Dương, Đức Trọng đã xây dựng được các vùng lúa, ngô cao sản, cơ cấu giống mới chiếm 50%; năng suất lúa bình quân năm 1984 đạt 23,6 tạ/ha gieo trồng, tăng 4,4 tạ so với năm 1983. Diện tích các loại cây công nghiệp dài ngày tăng. Năm 1984 trồng mới 854 ha chè, tăng 110 ha so với 1983 và gấp 4 lần năm 1981; trồng mới 1.734 ha cà phê, tăng 464 ha so với 1983, gấp 14 lần 1981, trong đó có 307 ha cà phê vườn của đồng bào dân tộc; cây mía đạt diện tích 10.000 ha, sản lượng đường đạt 3.700 tấn, vượt 1.350 tấn so với chỉ tiêu Đại hội III đề ra. Sản lượng rau đạt 40.000 tấn, tăng 6,7% so với 1983.; đậu tương đạt 2.800 tấn, tăng 100 tấn so với năm 1983 và gấp hai lần so với 1981.

Cùng với trồng trọt, chăn nuôi tiếp tục phát triển. Tổng đàn trâu bò là 14.507 con, tăng 2.400 con so với năm 1983; đàn bò 27.916 con, tăng 2.813 con so với 1983; đàn heo tăng 20% so với năm 1983.

Vốn đầu tư xây dựng thuỷ lợi tăng 11% so với năm 1983, công tác thuỷ lợi nhỏ tiếp tục phát triển, khá nhất là các huyện Đức Trọng, Di Linh, Lạc Dương.

Ngành lâm nghiệp hoàn thành cơ bản việc quy hoạch ngành trên địa bàn 5 huyện và xây dựng phương án phát triển nghề rừng trong những năm tới. diện tích trồng rừng tập trung đạt 2.611 ha, tăng gấp hai lần năm 1983; khai thác gỗ tròn đạt 70.000 m3, nhựa thông đạt 1.250 tấn. Diện tích rừng bị cháy giảm 33% so với năm 1983.

Về kinh tế mới, định canh, định cư, năm 1984, tỉnh tiếp nhận 2.231 hộ với 9.737 khẩu, 4.558 lao động các tỉnh đến xây dựng kinh tế mới. Huyện Đạ Huoai đã tiếp nhận 90% số dân trên. Các huyện Đức Trọng, Di Linh, Bảo Lộc tiếp tục triển khai việc giãn dân, với 1.639 hộ.

Năm 1984, tỉnh tiến hành tổ chức định canh, định cư gắn với phát triển kinh tế vườn, mở rộng ngành nghề cho 1.810 hộ, với 9.050 khẩu, 5.108 lao động, thu hút 3.660 lao động người dân tộc làm nghề rừng, sản xuất chè, dâu tằm.

Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có sự phát triển so với năm 1983. Tổng sản lượng công nghiệp địa phương năm 1984 là 593.642.000đ.

Ngành giao thông vận tải đảm bảo được yêu cầu vận chuyển hàng hoá, hành khách với 233.000 tấn hàng hoá và 2.500.000 lượt hành khách.

Ngành điện lực phối hợp với các cấp, các ngành trong quản lý, vận hành, phân phối điện, cung cấp tương đối đủ điện phục vụ sản xuất và đời sống.

Ngành bưu điện trên cơ sở tận dụng thiết bị hiện có, thông tin trên các tuyến thông suốt và đảm bảo yêu cầu chỉ đạo và thư tín của nhân dân.

Trong đầu tư xây dựng cơ bản, đã tập trung vốn đẩy mạnh tiến độ thi công các công trình trọng điểm. Năm 1984 đưa vào sử dụng hai công trình trọng điểm là hệ thống cấp nước Đà Lạt và Nhà máy ươm tơ 35 tấn/năm, giải quyết được 5.000 m2 nhà ở cho công nhân Liên hiệp xí nghiệp chè Lâm Đồng. Việc thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” đạt nhiều kết quả tốt, nhất là trong xây dựng trường học, đường giao thông nông thôn và các công trình thuỷ lợi nhỏ.

Trên lĩnh vực phân phối lưu thông, mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa được mở rộng; thu mua, nắm nguồn hàng nông sản thực phẩm và tổng mức bán lẻ trên thị trường tăng so với năm 1983. Năm 1984 thu mua lương thực đạt 23.500 tấn quy thóc; xuất khẩu 2.200 tấn chè, 250 tấn cà phê nhân; tổng giá trị xuất khẩu đạt 6,8 triệu rúp.

Lĩnh vực kinh doanh du lịch, lượng khách năm 1984 tăng 35% so với năm 1983; doanh thu đạt 140 triệu đồng, vượt kế hoạch 27%.

Về tài chính, thu ngân sách năm 1984 vượt kế hoạch. Công tác ngân hàng góp phần đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống; thành lập thêm 68 hợp tác xã tín dụng.

Ngành giáo dục tiếp tục triển khai cải cách giáo dục theo Nghị quyết 14 của Bộ chính trị và Nghị quyết 23 của Hội đồng bộ trưởng; chú trọng hơn việc giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề. Đầu năm học 1984-1985, có 120.735 học sinh, bình quân trong tỉnh cứ 3,9 người dân có 01 người đi học.

Ngành y tế tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh, phát triển mạng lưới; kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền; khai thác nguồn dược liệu địa phương để sản xuất thuốc chữa bệnh. Toàn tỉnh có 7 bệnh viện với trên 1.500 giường, có 668 y bác sĩ, y tá; 172 dược sỹ, dược tá và hầu hết các xã phường đều có trạm xá hoặc bệnh xá.

Công tác bảo vệ bà mẹ trẻ em được quan tâm, xoá được huyện trắng về nhà trẻ. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 2,55%

Hoạt động văn hoá thông tin đã vươn lên đáp ứng yêu cầu tuyên truyền và phục vụ sinh hoạt tinh thần của nhân dân thông qua hệ thống phát thanh, truyền hình, sách báo, văn hoá phẩm và các loại hình nghệ thuật. Phong trào văn nghệ quần chúng, đội chiếu bóng lưu động tăng cường phục vụ đồng bào dân tộc ít người.

Hoạt động khoa học-kỹ thuật gắn với sản xuất và đời sống, chú trọng hơn đến công tác tiêu chuẩn hoá và xây dựng mạng lưới ở các ngành, các đơn vị.

Cùng với những thắng lợi trên mặt trận sản xuất, phân phối lưu thông, văn hoá-xã hội, công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa cũng có nhiều chuyển biến tiến bộ.

Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp được củng cố. Năm 1984 phát triển thêm 13 hợp tác xã và 57 tập đoàn sản xuất, nâng số hợp tác xã lên 85 và tập đoàn sản xuất lên 513; thu hút 73% số hộ nông dân vào lao động nông nghiệp với 52% đất canh tác toàn tỉnh. Việc thực hiện cơ chế khoán 100 ở các đơn vị sản xuất đã góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Trong cải tạo thương nghiệp tư doanh, việc cải tạo đối với tư sản cơ bản đã hoàn thành; tiếp tục kiện toàn tổ chức liên hiệp hợp tác xã các cấp, các tổ chức tiểu thủ công nghiệp, vì vậy sản xuất tiểu thủ công nghiệp tăng. Các xí nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại và cải tiến cơ chế quản lý.

Công tác xây dựng, tăng cường cấp huyện và bổ sung quy hoạch ngành cũng được tiếp tục triển khai; đã rà soát và bổ sung quy hoạch tổng thể cho 4 huyện: Đức Trọng, Di Linh, Bảo Lộc và Đơn Dương. Các cơ sở của các ngành: nông nghiệp, lâm nghiệp, thương nghiệp, hoạt động khoa học-kỹ thuật đã gắn với sản xuất với đời sống.

Công tác chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, cán bộ hưu trí, mất sức, quân nhân phục viên được quan tâm. Việc cứu tế xã hội được tiến hành thường xuyên.

Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội, an ninh quốc phòng trong những năm 1983-1984, Tỉnh uỷ tiếp tục đề ra chủ trương, biện pháp phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được nêu trong Nghị quyết Đại hội III Đảng bộ tỉnh.

Đối với sản xuất tiểu thủ công nghiệp, củng cố và mở rộng các cơ sở sản xuất tập thể gắn với cải tạo công thương nghiệp tư doanh; chuyển phần lớn tư thương sang sản xuất nông-lâm và tiểu thủ công nghiệp.

Về lâm nghiệp, tổ chức sắp xếp lại các lâm trường, tiến hành giao đất, giao rừng cho huyện quản lý. Tổ chức định canh, định cư gắn với lâm nghiệp; thiết kế mô hình sản xuất lâm-nông kết hợp trên từng tiểu khu, trong các lâm trường, trước hết là các vùng: Lộc Lâm, Lộc Bắc, Lộc Nam, Sơn Điền, Đinh Trang Thượng, KilpLanhol hạ, Nam Đơn Dương. Gắn kinh tế-xã hội với quốc phòng an ninh. Tổ chức sản xuất kinh doanh có trọng điểm, đồng thời mở rộng kinh doanh toàn diện, tận dụng tổng hợp tài nguyên rừng, nâng cao hiệu quả kinh tế, phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân, tăng nhanh nguồn thu cho ngân sách; phấn đấu đưa sản phẩm rừng thành mặt hàng mũi nhọn xuất khẩu. Sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, đổi mới một bước cơ chế quản lý trong lâm nghiệp. Thiết lập quy chế chung toàn ngành lâm nghiệp; củng cố sắp xếp lại các công ty, xí nghiệp trực thuộc sở; củng cố, tăng cường hệ thống lâm nghiệp huyện; thành lập Ban lâm nghiệp ở những xã, phường có rừng. Tiến hành phân cấp quản lý giữa tỉnh và huyện. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác lâm nghiệp.

Về cải tạo xã hội chủ nghĩa trên mặt trận nông nghiệp, Đảng bộ tỉnh chỉ đạo ra sức củng cố các đơn vị kinh tế tập thể đã có, đẩy mạnh xây dựng các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất mới gắn với việc thực hiện kế hoạch Nhà nước hàng năm. Bảo đảm tính chất tập thể xã hội chủ nghĩa và mọi phương diện tổ chức sản xuất, quản lý và phân phối để các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất làm ăn tốt hơn so với nông dân cá thể. Gắn công tác củng cố xây dựng hợp tác xã, tập đoàn sản xuất với công tác xây dựng huyện, tổ chức lại sản xuất trên địa bàn huyện và tăng cường cấp huyện, hình thành từng bước cơ cấu kinh tế nông-lâm-công nghiệp, khẩn trương quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ cho phong trào hợp tác hoá nông nghiệp. Tổ chức đợt sinh hoạt chính trị tập trung trong toàn Đảng bộ, các cấp, các ngành tạo thành cao trào cách mạng toàn diện, tạo sức mạnh tổng hợp, đồng bộ. Huyện uỷ, thành uỷ phải trực tiếp chỉ đạo phong trào hợp tác xã nông nghiệp, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên, trực tiếp và gắn với thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội của huyện. Tỉnh tiến hành chỉ đạo điểm một số hợp tác xã ở hai vùng cây công nghiệp và cây lương thực.

Công tác củng cố phong trào hợp tác hoá nông nghiệp được gắn chặt với việc củng cố, kiện toàn các tổ chức cơ sở. Huy động lực lượng cán bộ đủ số lượng và chất lượng tốt xuống làm công tác củng cố, xây dựng phong trào hợp tác hoá ở các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất trọng tâm.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng, các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ chính trị và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III, Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 7 (Khoá III) ra Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày 10-3-1984, chỉ đạo công tác quốc phòng, quân sự địa phương năm 1984-1985 và những năm tới của tỉnh. Những công tác lớn và biện pháp chính được xác định là:

Tăng cường cảnh giác, động viên sức mạnh tổng hợp của nền chuyên chính vô sản, kiên quyết đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, trước hết tập trung cơ bản giải quyết vấn đề FULRO; xây dựng thực lực cách mạng, ổn định đời sống nhân dân, nhất là vùng dân tộc thiểu số.

Ra sức củng cố quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân ở địa phương. Xây dựng tuyến phòng thủ sẵn sàng chiến đấu chống địch xâm nhập từ bên ngoài vào. Xây dựng huyện thành pháo đài quân sự, buôn làng thôn xã chiến đấu, xí nghiệp nông lâm trường chiến đấu, cụm chiến đấu; xây dựng hậu phương trực tiếp và hậu cần địa phương.

Xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng tổng hợp các lực lượng vũ trang. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ trong sạch vững mạnh và rộng khắp. Nâng cao chất lượng tổng hợp và trình độ sẵn sàng chiến đấu của bộ đội địa phương, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở, củng cố trường quân sự địa phương.

Khẩn trương xây dựng lực lượng dự bị, thực hiện tốt việc gọi thanh niên nhập ngũ, từng bước tập dượt chuyển địa phương từ thời bình sang thời chiến.

Củng cố công tác hậu cần, bảo đảm kỹ thuật, bảo đảm đời sống lực lượng vũ trang.

Thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ quân đội, hậu phương quân đội và các chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ.

Tăng cường sự lãnh đạo tập trung thống nhất của cấp uỷ Đảng, phát huy sức mạnh đồng bộ của các ngành và vai trò tham mưu của cơ quan quân sự đối với nhiệm vụ củng cố quốc phòng, nhiệm vụ công tác quân sự địa phương.

Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội V của Đảng, các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương, triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ III đến năm 1985, Đảng bộ, quân và dân Lâm Đồng đã giành được những thành quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực.

Về nông nghiệp, giải quyết phần lớn nhu cầu lương thực và phát huy thế mạnh cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, tạo tỷ suất hàng hoá ngày càng lớn. Diện tích trồng cây lương thực được mở rộng. Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt gần 130.000 tấn năm 1985, tăng 33% so với năm 1982; đạt 35-40 ngàn tấn rau thương phẩm. Cây công nghiệp phát triển nhanh trong khu vực tập thể và gia đình. So với năm 1982, diện tích trồng mới cà phê tăng gấp 4 lần, chè tăng 2 lần, mía tăng 95%, dâu tằm tăng 50%. Đồng bào dân tộc gốc địa phương đã trồng 1.000 ha cà phê vườn. Chăn nuôi tiếp tục phát triển, đàn bò tăng gần 10.000 con, đàn trâu tăng hơn 4.000 con. Trồng thêm 7.000 ha rừng thông tập trung. Diện tích cây lương thực trên địa bàn Đạ Tẻh, Cát Tiên được mở rộng.

Về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giá trị sản lượng năm 1985 đạt 688 triệu đồng, chiếm 34% tổng sản phẩm xã hội; tạo thêm được một số sản phẩm mới như vải, tơ, đường, cồn, rượu. Giao thông nông thôn được mở thêm, các tuyến đường Mađagui-Cát Tiên, quốc lộ 27 được tu bổ và khai thác đảm bảo cơ bản yêu cầu vận chuyển hàng hoá, hành khách của địa phương.

Mạng lưới thông tin, bưu điện phát triển đến các huyện và phần lớn các xã, phục vụ được yêu cầu liên lạc trong và ngoài tỉnh.

Lĩnh vực phân phối lưu thông đã cố gắng huy động lương thực, thu mua cà phê, trà, đậu đỗ phục vụ xuất khẩu. Hoạt động du lịch có nhiều tiến bộ; ngân sách và tiền tệ cơ bản giữ được mức thu, chi.

Nhìn chung, một số chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra tại Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III về giá trị tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân, tổng sản lượng lương thực, trồng mới cây công nghiệp dài ngày, trồng rừng, dệt vải…

Về xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong 3 năm, vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 779 triệu đồng, trong đó khu vực sản xuất vật chất chiếm 84,7%; tập trung phát triển vùng kinh tế mới Đạ Tẻh, Cát Tiên, trồng mới cây công nghiệp dài ngày, trồng rừng, làm đường giao thông, thuỷ điện; xây dựng thêm một số cơ sở công nghiệp quan trọng như: nhà máy nước Suối Vàng, xí nghiệp ươm tơ Bảo Lộc, thuỷ điện Lộc Phát, chế biến dược liệu, mở rộng năng lực sản xuất hai nhà máy chè 1/5 và 19/5, nhà máy chế biến nhựa thông. Nhân dân đóng góp công sức và hàng trăm triệu đồng để trồng mới cây công nghiệp dài ngày, xây dựng cơ sở ươm tơ, dệt vải, làm thuỷ lợi nhỏ, kéo điện lưới, làm đường giao thông nông thôn, trường học, bệnh xá và các công trình phúc lợi tập thể.

Cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố mối quan hệ sản xuất mới, đến năm 1985 đã xây dựng được 74 hợp tác xã và 724 tập đoàn sản xuất nông nghiệp, có 76,2% số hộ và phần lớn tư liệu sản xuất chủ yếu do tập thể quản lý. Đã tập hợp, sử dụng 4.500 lao động trong 25 hợp tác xã và 30 tổ hợp tác sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được củng cố và tăng cường một bước ở vùng cây công nghiệp và vùng sản xuất lương thực. Đa số hợp tác xã và tập đoàn sản xuất thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động (theo Chỉ thị 100 của Trung ương).

Trong 3 năm 1983-1985, dân số tăng thêm 60 ngàn người, nhưng mức sản xuất lương thực bình quân đầu người từ 215 kg năm 1982 tăng lên 265 kg năm 1985, đồng thời dùng các sản phẩm thế mạnh của địa phương thông qua trao đổi, đã giữ được mức bình thường về nhu cầu lương thực hàng năm. Cơ bản đảm bảo vải mặc, nhu cầu thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu, nhu cầu đi lại của nhân dân.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo từng bước gắn với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương; công tác giáo dục vùng dân tộc và giáo dục hướng nghiệp dạy nghề có chuyển biến. Năm học 1984-1985 có 16.049 học sinh mẫu giáo; 97.420 học sinh phổ thông cơ sở; 6.694 học sinh phổ thông trung học; 1.520 học viên bổ túc văn hoá; 492 sinh viên cao đẳng sư phạm (trong đó có 185 sinh viên người dân tộc thiểu số tại chỗ). Bình quân cứ 3,9 người dân có một người đi học.

Ngành y tế đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng bệnh, chữa bệnh từ cơ sở, vận động nhân dân thực hiện sinh đẻ có kế hoạch. Các xã có trạm y tế, 70% trạm xá xã có y sĩ phục vụ; năm 1985 tăng thêm 220 giường bệnh.

Công tác văn hoá-thông tin, phát thanh-truyền hình phát triển đến cơ sở phục vụ cho công tác tư tưởng của Đảng, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Phong trào thể dục-thể thao hoạt động văn hoá quần chúng phát triển. Ngành chú ý kiểm tra, truy quét, thu hồi, tiêu huỷ các văn hoá phẩm đồi truỵ, phản động. Toàn tỉnh xây dựng được 1 thư viện tỉnh và 6 thư viện huyện, 1 nhà bảo tàng tỉnh, 2 nhà truyền thống huyện và nhà truyền thống khu kinh tế mới, tạo thành phong trào đọc sách báo, giáo dục truyền thống cách mạng.

Công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, cán bộ về hưu, công tác hậu phương quân đội được tỉnh quan tâm và thực hiện đúng chính sách của Đảng và Nhà nước. Công tác quy tập mộ liệt sĩ về nghĩa trang, xây dựng nhà tình nghĩa, khen thưởng người có công, xoá đói giảm nghèo đều được quan tâm thực hiện.

Về nhiệm vụ an ninh quốc phòng, Đảng bộ đã quan tâm, coi trọng công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc phòng, tăng cường giáo dục cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nhận rõ âm mưu của các thế lực thù địch trong việc nuôi dưỡng, sử dụng lực lượng FULRO và bọn phản động khác, chống phá ta trên nhiều mặt; tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 03-NQ/TW của Bộ chính trị; coi trọng phát huy sức mạnh của hệ thống chuyên chính vô sản, kiên trì phát động quần chúng, xây dựng thực lực cách mạng ở cơ sở, gắn với xây dựng toàn diện vùng đồng bào dân tộc. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển tốt hơn. Công tác chống gián điệp, chống chiến tranh tâm lý của địch, chống xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa có tiến bộ. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội từng bước được tăng cường.

Công tác điều chỉnh, tổ chức thêm điểm dân cư, xây dựng các khu kinh tế mới, định canh, định cư, gắn phát triển kinh tế với an ninh quốc phòng, tạo cho thế phòng thủ của địa phương được củng cố, tăng cường.

Lực lượng vũ trang và công an nhân dân được xây dựng, củng cố, nâng cao tinh thần và khả năng chiến đấu, ý thức tổ chức kỷ luật. Phong trào quần chúng xây dựng phường, xã, cơ quan, xí nghiệp an toàn, xây dựng phòng tuyến an ninh nhân dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân và xây dựng lực lượng vũ trang ở cơ sở có bước phát triển. Lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng ở 71 xã, phường, 350 cơ quan, xí nghiệp. Tỉnh chú trọng xây dựng lực lượng dự bị, hình thành được hai tiểu đoàn dự bị động viên ở Đà Lạt, Bảo Lộc. Công tác gọi thanh niên nhập ngũ hàng năm đáp ứng yêu cầu bổ sung lực lượng cho địa phương. Lực lượng bộ đội địa phương tỉnh, huyện có bước tiến bộ trong huấn luyện, xây dựng lực lượng góp phần tích cực trong giải quyết vấn đề FULRO.

Bằng phát động, giác ngộ quần chúng, xây dựng kinh tế-xã hội, chăm lo đời sống đồng bào dân tộc thiểu số, xây dựng thực lực cách mạng và làm chuyển biến lực lượng ta, địch ở cơ sở, nhất là các địa bàn trọng điểm (Lạc Dương, Đức Trọng), kết hợp với đấu tranh vũ trang, ta đã tiêu diệt và làm tan rã một lực lượng quan trọng của FULRO, đẩy chúng vào thế bị động và tiếp tục suy yếu, làm thất bại một bước âm mưu của kẻ thù nhằm chống phá công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở địa phương.

Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức được các cấp uỷ Đảng quan tâm tổ chức thực hiện. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III, các nghị quyết của Trung ương và của Đảng bộ được triển khai đến cán bộ, đảng viên, nhân dân. Vì vậy, nâng cao được lập trường quan điểm, đạo đức cách mạng và ý thức chấp hành nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong các cấp, các ngành, trong nội bộ Đảng và nhân dân.

Thực hiện Nghị quyết 02-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, công tác tổ chức bộ máy các cấp được củng cố, kiện toàn một bước, nhất là trong phát triển đảng viên mới, xây dựng cơ sở xã, phường, quan tâm đào tạo cán bộ, xây dựng đảng bộ, chi bộ cơ sở trong sạch vững mạnh. Số đảng bộ cơ sở đạt chất lượng khá hàng năm đều tăng, xoá dần loại yếu kém. Một số đảng bộ có bước trưởng thành trong công tác lãnh đạo gắn với cải tiến cơ chế quản lý.

Uỷ ban kiểm tra của Tỉnh uỷ, huyện uỷ, thành uỷ và các đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ được tăng cường. Công tác kiểm tra Đảng đã giúp đảng bộ đôn đốc việc chấp hành Điều lệ, nghị quyết của Đảng, đồng thời, sâu sát cơ sở phát hiện, xác minh, kết luận những trường hợp liên quan đến cán bộ, đảng viên, góp phần củng cố, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Cùng với củng cố, xây dựng Đảng là kiện toàn bộ máy chính quyền và các đoàn thể nhân dân các cấp trong tỉnh. Ba vấn đề cơ bản để kiện toàn bộ máy Nhà nước ở địa phương được quan tâm chỉ đạo là: xây dựng cơ chế quản lý mới, sửa đổi phương pháp làm việc và bố trí đúng cán bộ.

Qua thực tiễn công tác, các tổ chức đoàn thể, mặt trận chọn lựa được những người có năng lực để đào tạo cán bộ phong trào. Hình thức tổ chức sinh hoạt bước đầu được đổi mới, chất lượng hoạt động nâng lên và thu hút số đoàn viên, hội viên ngày càng đông. Ban dân vận và Ban dân tộc tỉnh được kiện toàn, giúp Tỉnh uỷ chỉ đạo công tác mặt trận, đoàn thể và công tác dân tộc của tỉnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Mặc dù hoàn cảnh đất nước có nhiều khó khăn, nền kinh tế địa phương mất cân đối nhiều mặt nhưng dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương Đảng mà trực tiếp là Bộ chính trị, Ban bí thư, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh nỗ lực phấn đấu và giành được những thành tích lớn trên một số mặt: giải quyết lương thực, phát triển mạnh cây công nghiệp, tăng nhanh khối lượng và giá trị hàng xuất khẩu. Công tác văn hoá-xã hội có tiến bộ, an ninh quốc phòng được củng cố và tăng cường, khắc phục một bước tình trạng mất cân đối trong sản xuất và khó khăn trong đời sống, tạo thêm tiền đề để tiếp tục phát triển vào các năm sau. Công tác củng cố, xây dựng Đảng bộ và chính quyền trong sạch, vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân có bước tiến bộ.

Nguyên nhân chủ yếu của những thành tích trên, trước hết là do Đảng bộ Lâm Đồng vận dụng đúng quan điểm đường lối phát triển nông nghiệp toàn diện, vừa đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, vừa đẩy nhanh sản xuất hàng hoá. Trong tổ chức sản xuất, đã từng bước củng cố tổ chức, sắp xếp kinh tế quốc doanh, đồng thời có chính sách sử dụng các thành phần kinh tế, tổ chức định canh, định cư, sử dụng lao động vùng đồng bào dân tộc thiểu số vào các nông-lâm trường. Xây dựng các vùng kinh tế mới, huy động được lao động và tiền vốn của nhân dân để phát triển sản xuất. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy truyền thống cách mạng, ý chí tự lực tự cường, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, nỗ lực phấn đấu khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước đề ra.

Những thành quả đạt được là quan trọng, tuy nhiên một số lĩnh vực đạt được còn thấp, sản xuất nông nghiệp phát triển chưa toàn diện, vững chắc. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển chậm; sản phẩm công nghiệp quốc doanh giảm sút; ngành nghề trong kinh tế tập thể chưa mở rộng. Phân phối lưu thông không ổn định, nhất là sau tổng điều chỉnh giá-lương-tiền lại càng rối ren, phức tạp, tác động xấu đến sản xuất và đời sống. Nguyên nhân khách quan là do hoàn cảnh, khó khăn chung của cả nước, đặc điểm kinh tế-xã hội của địa phương, do chậm cụ thể hoá quá trình chỉ đạo thực hiện các nghị quyết; công tác xây dựng huyện chưa được quan tâm đúng mức, mối quan hệ trong cơ cấu các thành phần kinh tế chưa được xác định hợp lý. Chưa nắm chắc đặc điểm kinh tế-xã hội địa phương và đường lối quan điểm, nguyên tắc, phương châm cải tạo xã hội chủ nghĩa ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; còn mắc khuyết điểm chủ quan, nóng vội. Trong quản lý kinh tế, tư tưởng quan liêu, hành chính, bao cấp còn nặng, chưa chú trọng phát huy tính năng động của cơ sở, không coi trọng hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Trên lĩnh vực phân phối lưu thông chưa quán triệt quan điểm phục vụ và thúc đẩy sản xuất phát triển; còn buông lỏng chuyên chính vô sản và cuộc đấu tranh giữa hai con đường. Những khuyết điểm trên bắt nguồn từ khuyết điểm trong công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ của Đảng bộ.

Phát huy những kết quả đạt được, kiên quyết khắc phục những hạn chế, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân khắc phục khó khăn, kiên trì phấn đấu để thu được những thành quả to lớn hơn và có những bước tiến mới.

III. GIẢI QUYẾT TRIỆT ĐỂ VẤN ĐỀ FULRO, GIỮ VỮNG VÀ TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG - AN NINH

Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ truy quét lực lượng phản động FULRO, ngày 13-4-1983, Tỉnh uỷ có Thông tri số 02-TT/TU về kế hoạch giải quyết vấn đề FULRO trong mùa mưa năm 1983. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ chỉ đạo Công an tỉnh, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh phối hợp với Ban Thường vụ các huyện Di Linh, Đức Trọng, Lạc Dương trực tiếp khảo sát, đánh giá thực lực cách mạng của ta ở cơ sở, xác định địa bàn, đối tượng cần tập trung đấu tranh nhằm giải quyết vấn đề FULRO. Trong chỉ đạo, đã kết hợp phát động quần chúng tấn công chính trị với tấn công vũ trang; kết hợp phát triển kinh tế, tổ chức đời sống trên cơ sở định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số với xây dựng củng cố thực lực cách mạng ở xã, thôn nhằm tạo chuyển biến mới về tương quan lực lượng có lợi cho ta.

Tháng 4-1983, địch còn khoảng 100 tên hoạt động ngoài rừng, tổ chức của chúng hình thành 13 toán vũ trang để hoạt động. Trong mùa mưa, địch tăng cường 2 toán từ Thái Lan, Campuchia về lại Lâm Đồng, gồm toán SoAoBul, thiếu tá uỷ viên công cán phủ Thủ tướng gồm 20 tên (8-1983) và toán 10 tên do thiếu tá Cil N rang, tiểu đoàn phó, xâm nhập tháng 10-1983. Trước đó, cuối năm 1983 địch đã đưa toán Quân khu 4 gồm 10 tên sang Campuchia để chuẩn bị kế hoạch trước mắt và lâu dài mở hành lang chuyển vũ khí về Lâm Đồng. Chúng móc nối với trên 200 người để xây dựng cơ sở nằm vùng. Âm mưu của chúng là: tích cực củng cố Quân khu 4, tái lập Quân khu 5, lập toán vũ trang thay thế cấp quận, duy trì hành lang từ Lâm Đồng đi Đắk Lắk sang Campuchia, lập khu sản xuất chuẩn bị căn cứ, tạo điều kiện đưa bọn được huấn luyện từ nước ngoài về chống phá ta lâu dài.

Từ năm 1983 đến 1985, thực hiện Nghị quyết 03-NQ/TW của Bộ chính trị và Nghị quyết 01-NQ/TU của Tỉnh uỷ, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban thường vụ Tỉnh uỷ, các cấp, ngành, đoàn thể và lực lượng vũ trang của tỉnh đã phát động quần chúng tấn công chính trị kết hợp bám đánh địch ở các tuyến, gọi hàng và tiêu diệt nhiều tên FULRO ở ngoài rừng, bóc gỡ số FULRO nằm trong các buôn, ấp vùng đồng bào dân tộc ít người, tiếp tục đẩy lùi hoạt động của chúng, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị ở địa phương. Công tác phát triển kinh tế, chăm lo giáo dục, bảo vệ sức khoẻ, phát triển văn hoá vùng dân tộc, vùng căn cứ kháng chiến cũ có chuyển biến, tiến bộ; đời sống đồng bào bớt khó khăn hơn, từ đó, niềm tin vào đường lối, chính sách của Đảng trong đồng bào tăng lên. Công tác xây dựng cơ sở gắn với xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện, theo tinh thần Nghị quyết 02-NQ/TU của Ban thường vụ Tỉnh uỷ có bước chuyển biến, góp phần tăng thêm thực lực cách mạng ở cơ sở; đội ngũ cán bộ người dân tộc được trưởng thành.

Ngày 4-9-1984, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Lâm Đồng ra Chỉ thị 30-CT/TU về việc tranh thủ thời cơ, đẩy mạnh tấn công chính trị kết hợp truy quét vũ trang làm tan rã cơ bản lực lượng vũ trang FULRO ở Lâm Đồng. Cuối mùa khô năm 1983 đến hết mùa mưa năm 1984, các lực lượng vũ trang đã khắc phục khó khăn, tổ chức 63 đợt truy lùng địch ở các hướng trọng điểm. Kết quả, đánh 17 trận, diệt 19 tên. Công tác trọng tâm là tấn công chính trị và bóc gỡ địch bên trong, từ sau khi có Chỉ thị 30-CT/TU tiếp tục được đẩy mạnh hơn. Kết quả kêu gọi được 29 tên FULRO về trình diện (có 4 đại uý, 14 tên từ chuẩn uý đến trung uý), thu 18 súng các loại, phát hiện 3 khung tề ấp, bóc gỡ 79 tên nằm vùng, khai thác xử lý ở huyện 24 tên, số khác cho học tập và kiểm điểm trước dân. Đội ngũ cán bộ xã, thôn được củng cố, bổ sung số cốt cán, trung kiên. Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 11 (Khoá III) đã ra Nghị quyết số 38-NQ/TU, ngày 20-5-1985, đề ra chủ trương, biện pháp giải quyết vấn đề FULRO gắn với xây dựng toàn diện vùng dân tộc trong năm 1985 và những năm tiếp theo.

Ghi nhận những thành tích trong hơn 10 năm vượt qua khó khăn, gian khổ, chiến đấu, hy sinh chống lại lực lượng phản động FULRO của các đơn vị lực lượng vũ trang tỉnh Lâm Đồng. Điển hình nhất vào ngày 29-8-1985, Hội đồng Nhà nước ra quyết định 735/KT/HĐNN trao tặng Công an huyện Đơn Dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân về những thành tích đạt được trong 10 năm công tác, chiến đấu và xây dựng lực lượng. Đây là một vinh dự lớn lao và cũng là trách nhiệm nặng nề của Công an huyện Đơn Dương nói riêng và Công an tỉnh Lâm Đồng nói chung trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, tình hình giải quyết vấn đề FULRO và công tác xây dựng vùng đồng bào dân tộc ít người chuyển biến chậm, chưa cơ bản và còn thiếu sót, khuyết điểm. Trong tấn công truy quét đã bỏ lỡ thời cơ giải quyết cơ bản vấn đề FULRO giai đoạn cuối năm 1982 đầu 1983 nên lực lượng FULRO ngoài rừng mở rộng địa bàn hoạt động. Công tác phát triển kinh tế, giải quyết đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa cơ bản, vững chắc. Công tác cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa còn mang tính hình thức, chưa tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển; tình trạng vi phạm chính sách đối với đồng bào dân tộc trong quá trình tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành đã làm giảm lòng tin của một bộ phận quần chúng đối với Đảng. Thực lực cách mạng còn yếu, tương quan lực lượng ta-địch ở cơ sở chuyển biến chưa rõ. Vai trò lãnh đạo của các cán bộ cấp uỷ xã bị lu mờ.

Nguyên nhân chủ quan của khuyết điểm trên là do Đảng bộ, các cấp, các ngành, đoàn thể và lực lượng vũ trang chưa nhận thức sâu sắc âm mưu thủ đoạn và phương thức hoạt động của bọn FULRO nằm trong chiến lược chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, do đó, có tư tưởng thoả mãn, chủ quan, mất cảnh giác, không kiên quyết bám đánh địch. Tình trạng vi phạm chính sách dân tộc của Đảng trong các cấp, các ngành và lực lượng vũ trang còn nặng nề và kéo dài, tạo sơ hở cho địch xuyên tạc và làm giảm lòng tin của quần chúng đối với Đảng và Nhà nước. Công tác xây dựng cơ sở, tăng cường và củng cố cấp huyện chuyển biến chậm. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa sâu sát cơ sở, không nắm được quần chúng.

Việc FULRO di chuyển lực lượng trở lại Tây Nguyên, cũng như toàn bộ lực lượng FULRO Quân khu 4 và toán “Bộ quốc phòng FULRO” đã xâm nhập và đứng chân hầu hết trên các địa bàn Lâm Đồng từ năm 1985 là nằm trong âm mưu của Mỹ và các thế lực thù địch đối với Tây Nguyên, dùng FULRO làm lực lượng chống phá ta về trước mắt và lâu dài. Giải quyết vấn đề FULRO ở Lâm Đồng thực chất là cuộc đấu tranh làm thất bại âm mưu hậu chiến của Mỹ, các thế lực thù địch đối với Tây Nguyên.

Để giải quyết vấn đề FULRO gắn với xây dựng toàn diện vùng đồng bào dân tộc ít người, nhiệm vụ cấp bách của năm 1985 là nhanh chóng giải quyết dứt điểm lực lượng FULRO ngoài rừng, tiêu diệt và làm tan rã các tổ chức của chúng ở bên trong và ngoài buôn ấp, đồng thời, làm tốt công tác chống phản động ở vùng Kinh. Làm chuyển biến tiến bộ rõ rệt về mọi mặt trong vùng đồng bào dân tộc; làm rõ tương quan lực lượng ta-địch ở từng thôn buôn; củng cố thực lực cách mạng và phát động phong trào quần chúng xây dựng cuộc sống mới, đánh địch, làm chủ buôn làng. Tăng cường xây dựng mối liên hệ gắn bó giữa Đảng, chính quyền và lực lượng vũ trang với đồng bào dân tộc; xây dựng khối đoàn kết các dân tộc để bảo vệ vững chắc an ninh chính trị trên từng địa bàn.

Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bám sát và nắm được quần chúng; làm cho quần chúng thấy được âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch nhằm chống phá đất nước và phá hoại chính sách đoàn kết các dân tộc của Đảng, phá hoại cuộc sống hoà bình của nhân dân; thấy rõ chính sách dân tộc của Đảng.

Xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh và đẩy mạnh các hoạt động vũ trang giữ gìn an ninh chính trị, chủ động đánh địch tại chỗ và phát hiện, tiêu diệt các toán FULRO ở ngoài rừng, bảo vệ an toàn tính mạng và tài sản cho đồng bào.

Đẩy mạnh xây dựng kinh tế, phát triển sản xuất gắn với cải tiến phân phối lưu thông, tạo sự chuyển biến rõ rệt về đời sống trong vùng đồng bào dân tộc ít người. Đẩy mạnh công tác định canh, định cư theo hướng lâm-nông và nông-lâm kết hợp, phát triển kinh tế vườn, làm hàng xuất khẩu và thu hút lao động vào các nông lâm trường quốc doanh, phấn đấu hết năm 1986, cơ bản hoàn thành định canh, định cư. Củng cố và phát triển phong trào hợp tác hoá nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc với các hình thức, quy mô, bước đi thích hợp trên từng địa bàn, chủ yếu là tập đoàn sản xuất hoặc tổ đoàn kết sản xuất ở những nơi đã định canh, định cư. Củng cố, mở rộng thương nghiệp xã hội chủ nghĩa đến tận các xã, buôn, phục vụ kịp thời yêu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân.

Tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, bao gồm cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế, cán bộ khoa học-kỹ thuật đối với vùng dân tộc ít người; đồng thời, quy hoạch đội ngũ cho những năm sau.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 03-NQ/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị 30-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Nghị quyết 11-NQ/TU (khoá III) ngày 20-5-1985 của Tỉnh uỷ, công tác đấu tranh giải quyết FULRO có bước chuyển biến tiến bộ.

Năm 1986, lực lượng FULRO bị loại thêm 70 tên, trong đó các tỉnh bạn Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đồng Nai hỗ trợ loại 10 tên. Cụ thể, ta diệt 18 tên, trong đó có tên đại tá Ê Nuôl M’ Bét, bắt sống 17 tên, gọi hàng 35 tên, thu một số vũ khí. Cùng với truy quét FULRO ở ngoài rừng, công tác phát động quần chúng được đẩy mạnh, đã bóc gỡ hai khung xã, 10 khung thôn ấp và vô hiệu hoá 116 tên do FULRO cài cấy làm việc hai mặt ở cơ sở. Ta đã xoá phiên hiệu 1 ZG (ZG 47 Lạc Dương) và 2 toán bám buôn ở Đức Trọng; đánh trúng và làm thiệt hại nặng Quân khu 4, diệt tên chỉ huy đầu sỏ và giải quyết cơ bản toán “Bộ quốc phòng FULRO”. Lực lượng FULRO ngoài rừng bị tiêu hao, chỉ còn khoảng 40 tên (trong đó có 18 phụ nữ và trẻ em).

Cuối năm 1986 đầu 1987, ta đã giải quyết được cơ bản lực lượng vũ trang FULRO hiện có ngoài rừng. Đây là kết quả thể hiện sự tập trung chỉ đạo và sự nỗ lực phấn đấu cao của toàn Đảng bộ, toàn dân, phá tan âm mưu của FULRO “Ở lại Tây Nguyên”, đưa Quân khu 4 về “lập căn cứ” để củng cố lực lượng bên trong. Đây là cơ sở thuận lợi để chúng ta có điều kiện quét sạch lực lượng vũ trang FULRO hiện có ngoài rừng và tiếp tục bóc gỡ triệt để FULRO nằm vùng thôn, ấp.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 11 NQ/TU, Tỉnh uỷ chủ trương các cấp uỷ huyện, thành phố chịu trách nhiệm chỉ đạo toàn diện, dứt điểm FULRO ở xã, thôn, ấp trọng điểm còn FULRO hoạt động. Chi bộ và chính quyền xã giữ vai trò quyết định giải quyết FULRO. Lực lượng công an-quân sự của tỉnh hỗ trợ biện pháp nghiệp vụ và theo dõi, chỉ đạo đối với huyện, thành phố, địa bàn trọng điểm vẫn là huyện Lạc Dương, Đức Trọng. Tiếp tục củng cố chi bộ, chính quyền, đoàn thể các xã, thôn và phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Trải qua một thời gian dài truy quét bọn FULRO, nhiều đồng bào, đồng chí đã anh dũng ngã xuống vì cuộc sống bình yên, nhiều tấm gương quả cảm đã hiến dâng tuổi xuân và máu xương cho Tổ quốc. Nổi bật là chiến sĩ công an Lâm Văn Thạnh, trong chuyên án F101 của công an tỉnh. Nhiệm vụ của anh lúc đó là đóng vai nhân viên của tổ chức Từ thiện quốc tế móc nối liên lạc với bọn chỉ huy FULRO tại Lâm Đồng. Để thực hiện chuyên án, đồng chí Lâm Văn Thạnh đã 11 lần lọt vào sào huyệt của địch thực hiện kế hoạch câu nhử, bắt sống bọn chỉ huy vùng IV, bản thân anh đã tỏ ra bình tĩnh, vững vàng, thông minh, dũng cảm khéo léo vận dụng tốt các biện pháp nghiệp vụ, ngoài ra anh đã trực tiếp đi đón 6 lần, bắt sống 53 tên. Trong số bị bắt có 14 tên cấp Trung ương FULRO gồm 1 đại tá đệ nhất Phó Thủ tướng, 5 trung tá, 2 Tổng trưởng, 1 Tổng cục quân huấn, 2 uỷ viên Quốc phòng, 3 thiếu tá... cấp quân khu có 14 tên, cấp tỉnh 6 tên. Lần thứ 7 đột nhập vào sào huyệt của địch, đồng chí đã anh dũng hy sinh vào ngày 23-12-1980. Với những chiến công xuất sắc như trên, năm 1982 liệt sĩ Lâm Văn Thạnh vinh dự được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực vũ trang nhân dân.

Thắng lợi liên tục trên mặt trận chiến đấu chống lại âm mưu phản động của bọn FULRO, đã khẳng định chủ trương đúng đắn và sự chỉ đạo sắc bén của Tỉnh uỷ trong việc đổi mới phương thức hành động của các lực lượng, tạo khí thế tiến công mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Trên địa bàn Đơn Dương, đến tháng 8-1987 toán FULRO gồm 8 tên do Ya A cầm đầu đã ra hàng. Tháng 10-1987 huyện Lạc Dương cũng đã kéo được toán FULRO 6 tên do Lê Ni chỉ huy về hàng, xoá sạch lực lượng vũ trang FULRO trên hai địa bàn này. Trên phạm vi toàn tỉnh tổ chức vũ trang của FULRO cơ bản đã bị ta xoá sạch, chỉ còn lại toán 12 tên sống trú ẩn rải rác trên địa bàn Di Linh, Đức Trọng và Bảo Lộc. Phát huy thắng lợi, Tỉnh uỷ tiếp tục chỉ đạo các lực lượng, tập trung giải quyết trong thời gian ngắn nhất. Đồng thời tăng cường công tác nắm tình hình, ngăn chặn âm mưu của bọn FULRO lưu vong của nước ngoài, bọn phản động lợi dụng đạo tin lành tác động vào vùng dân tộc..., không để FULRO tái hoạt động.

Ngày 28-11-1987, Tỉnh uỷ mở Hội nghị tổng kết 12 năm đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO. Hội nghị nhất trí đánh giá: Kết quả đấu tranh giải quyết cơ bản vấn đề FULRO trên phạm vi toàn tỉnh là thắng lợi có ý nghĩa chính trị hết sức lớn lao đối với địa bàn Tây Nguyên nói chung và Lâm Đồng nói riêng, từ đó tăng cường khối đoàn kết dân tộc, củng cổ niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Đồng bào các dân tộc phấn khởi, yên tâm làm ăn, tích cực tham gia xây dựng và phát triển đời sống kinh tế, văn hoá-xã hội. Góp phần đem lại sắc thái mới, tiếp tục thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng đối với địa bàn Tây Nguyên nói chung và Lâm Đồng nói riêng. Hội nghị rút ra bài học kinh nghiệm từ trong đấu tranh và tiếp tục bước vào nhiệm vụ củng cố, xây dựng toàn diện vùng đồng bào dân tộc, những bài học kinh nghiệm đó là : phải nắm vững quan điểm, chính sách dân tộc và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, vận dụng sáng tạo và giải quyết tốt mối quan hệ giữa vấn đề chính trị với vấn đề kinh tế, đời sống của đồng bào dân tộc, từ đó mà giải quyết vấn đề FULRO . Phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa các biện pháp vũ trang, vận động quần chúng tấn công chính trị với các biện pháp nghiệp vụ của lực lượng công an trên cơ sở lấy dân làm gốc để tổ chức và huy động đồng bộ các lực lượng, ban ngành, đoàn thể cùng tham gia, dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc có đủ phẩm chất, trình độ và năng lực để điều hành công việc tại cơ sở và vận động quần chúng tham gia phong trào cách mạng.

CHƯƠNG III

BƯỚC ĐẦU TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI

THEO ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG

(1986-1991)

 

I. ĐƯA ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN CỦA ĐẢNG VÀO TỈNH LÂM ĐỒNG

Năm 1986, đất nước trong tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm trọng, những sai lầm về cải cách giá-lương-tiền chưa thể sớm khắc phục càng làm cho khó khăn thêm gay gắt. Từ năm 1989 đến năm 1991 trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng, Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá ta trên nhiều lĩnh vực.

Đối với tỉnh Lâm Đồng, qua 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng và các Nghị quyết của Trung ương, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ III, trên nhiều lĩnh vực, Đảng bộ đã giành được những thành tựu quan trọng nhưng cũng phạm những khuyết điểm, sai lầm. Nền kinh tế mất cân đối nhiều mặt, công tác quản lý xã hội còn nhiều lúng túng, hạn chế. Trong bối cảnh khó khăn, phức tạp đó, Đảng bộ đã nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá đúng tình hình, rút ra những kinh nghiệm thực tiễn. Từ đó nêu cao quyết tâm lãnh đạo nhân dân trong tỉnh thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng trong thời gian tới.

Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiến hành Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, trong toàn tỉnh, các đảng bộ huyện, thị xã, thành phố và cơ sở tiến hành Đại hội. Các Đại hội đã thảo luận và tổng hợp ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên, nhân dân vào dự thảo Văn kiện sẽ trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.

Từ ngày 10 đến ngày 16-10-1986, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ IV được tiến hành tại thành phố Đà Lạt. Dự Đại hội có 420 đại biểu thay mặt cho 6.880 đảng viên toàn Đảng bộ. Tại Đại hội, các đại biểu đã thảo luận, thông qua báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào các dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IV.

Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 58 đồng chí (có 10 uỷ viên dự khuyết); Ban chấp hành bầu Ban thường vụ gồm 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Trung Tín được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ; đồng chí Nguyễn Duy Anh làm Phó Bí thư thường trực Tỉnh uỷ; đồng chí Nguyễn Xuân Du làm Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh.

Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ IV là mốc đánh dấu sự lãnh đạo của Đảng bộ triển khai thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.

Tinh thần đổi mới của Trung ương được Đại hội Đảng bộ tiếp thu, vận dụng vào tình hình địa phương. Đại hội IV Đảng bộ tỉnh đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế-xã hội của tỉnh trong 5 năm (1986-1990) là phát huy sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế; khai thác có hiệu quả cao về tiềm năng lao động, đất rừng…, tiếp tục phát triển mạnh sản xuất nông nghiệp toàn diện, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, tạo cho được tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, phấn đấu ổn định về cơ bản tình hình kinh tế-xã hội, hình thành từng bước cơ cấu kinh tế nông-lâm-công nghiệp trên địa bàn huyện, chuẩn bị tiền đề phát triển mạnh cho thời kỳ tiếp theo; củng cố, vững chắc an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm nhu cầu quốc phòng, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.

Thực hiện những phương hướng đó, Đại hội đề ra các mục tiêu chủ yếu sau:

1. Tập trung sức thực hiện ba chương trình kinh tế lớn về lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đồng thời tích cực giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông, từng bước ổn định thị trường giá cả. Trên cơ sở đó, phấn đấu giảm bớt khó khăn, tiến tới ổn định dần đời sống cán bộ, công nhân viên, lực lượng vũ trang và nhân dân lao động, tăng thêm mức tiêu dùng bình quân đầu người hàng năm về lương thực, thực phẩm, vải mặc; cố gắng đảm bảo nhu cầu chữa bệnh và học hành, đáp ứng thêm nhu cầu về nhà ở, đồ dùng thiết yếu, giảm bớt khó khăn về đi lại, tăng thêm điều kiện hưởng thụ văn hoá cho nhân dân.

2. Tạo sự biến đổi đáng kể về mặt xã hội, nhất là vùng dân tộc ít người, kinh tế mới. Bảo đảm cho người lao động ở thành phố, thị trấn có việc làm, khắc phục các hiện tượng tiêu cực, thực hiện công bằng xã hội, xây dựng nếp sống lành mạnh, nhất là trong thanh thiếu niên.

3. Tạo nhanh tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn của Nhà nước và các nguồn vốn khác, tập trung cho các mục tiêu trọng điểm, tăng cường cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển trong những năm tiếp theo.

4. Tiếp tục đẩy mạnh cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bằng những hình thức và quy mô thích hợp trên mỗi vùng. Củng cố và phát triển nhanh lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế quốc doanh, tập thể, đảm bảo vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế, đồng thời với hình thành đồng bộ những bộ phận quan trọng của cơ chế quản lý mới. Lập lại trật tự, kỷ cương trong quản lý kinh tế.

5. Củng cố an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, kiên quyết đánh bại một bước quan trọng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, giải quyết dứt điểm vấn đề FULRO. Từng bước xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, xây dựng lực lượng vũ trang và công an nhân dân vững mạnh. Bảo đảm các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế với quốc phòng ngay từ cơ sở trên địa bàn xung yếu, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.

Nhân tố cơ bản nhất để đảm bảo thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đã đề ra là phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, kiện toàn bộ máy và nâng cao năng lực quản lý, hiệu quả điều hành của các cấp chính quyền, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tạo ra phong trào cách mạng sôi nổi của quần chúng, thực hiện đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt.

Nhằm đạt được các mục tiêu chủ yếu trên, trong kế hoạch 1986-1990, phải bố trí đúng cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học-kỹ thuật, đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa và tổ chức lại sản xuất phù hợp với địa phương, xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa lớn mạnh, nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, sử dụng và phát huy mọi khả năng các thành phần kinh tế khác, tập trung đồng bộ thực hiện ba chương trình mục tiêu, ra sức xây dựng huyện, tăng cường cấp huyện và cơ sở.

Việc bố trí cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư phải tập trung phát triển nông nghiệp toàn diện gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến, tăng nhanh lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, phát triển mạnh du lịch và nghỉ dưỡng, tăng thêm cơ sở hạ tầng, bước đầu tạo ra cơ cấu kinh tế nông-công nghiệp hợp lý ngay từ cơ sở và trên địa bàn huyện. Thực hiện phương châm lấy ngắn nuôi dài, tạo nhanh tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.

Sử dụng hết diện tích canh tác đã có đi đôi với mở rộng diện tích nông nghiệp. Phấn đấu đến năm 1990, toàn tỉnh có từ 95.000-100.000 ha canh tác, nâng hệ số sử dụng đất lên từ 1,6 đến 1,7 lần.

Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất lương thực, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm lâu dài, phát triển cây công nghiệp ngắn và dài ngày, đẩy mạnh chăn nuôi, phấn đấu bình quân đạt 300 kg lương thực/người/năm.

Đẩy mạnh giao đất giao rừng lâm nghiệp, thực hiện rừng có người làm chủ cụ thể. Chuyển mạnh hoạt động lâm nghiệp theo hướng lâm-nông-công kết hợp. Tổ chức để nhân dân quản lý, bảo vệ, xây dựng, kinh doanh làm giàu rừng với hình thức liên kết giữa quốc doanh, tập thể và hộ gia đình, đảm bảo người làm nghề rừng có thu nhập thoả đáng, ổn định đời sống.

Giải quyết tốt công tác định canh, định cư, chấm dứt du canh, hạn chế dần việc phá rừng làm rẫy và nạn cháy rừng. Tập trung giao đất, giao rừng trên hai vùng trọng điểm: vùng rừng thông tập trung và rừng tre nứa, xây dựng rừng tự nhiên và đất trống đồi núi trọc thành rừng nguyên liệu công nghiệp ổn định. Thu hút nhiều lao động, chủ yếu là đồng bào dân tộc làm nghề rừng. Kết hợp trồng cây rừng với cây công nghiệp dài ngày trên từng diện tích ở những nơi có điều kiện. Phát triển nuôi đàn bò dưới tán rừng. Bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng thắng cảnh, các loài thú và cây rừng quý hiếm, khai thác gỗ, củi, nhựa thông, lâm sản phụ, dược liệu ... Kết hợp chặt chẽ khai thác với chế biến, giữa quản lý theo ngành với lãnh thổ. Phấn đấu đưa tổng giá trị lâm sản đã chế biến đến năm 1990 chiếm 60-70% sản phẩm lâm nghiệp.

Trong công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, phát triển nhanh công nghiệp chế biến và sản xuất hàng tiêu dùng, coi đây là hướng quan trọng của nền kinh tế; khai thác hết công suất các nhà máy chè đã có. Liên kết giữa quốc doanh và tập thể để phát triển chế biến chè xanh có chất lượng cao. Xây dựng các cơ sở chế biến cà phê với quy mô thích hợp và đảm bảo chất lượng cà phê xuất khẩu. Nâng cao chất lượng tơ của nhà máy tơ Bảo Lộc. Phát triển ươm tơ trong khu tập thể và gia đình, mở rộng gia công dệt, thêu, đan len, may mặc. Từng bước mở rộng các cơ sở sản xuất theo vùng nguyên liệu mía đường, rượu, hoa quả, bánh mứt kẹo, mì, màu lương thực, thức ăn gia súc, nước chấm, thuốc chữa bệnh. Chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển công nghiệp hoá dược sau những năm 1990. Đẩy mạnh chế biến lâm sản, coi đây là hướng công nghiệp quan trọng. Phát triển công nghiệp khai thác và sản xuất các sản phẩm từ khoáng sản, tăng thêm sản phẩm đồ sứ, các sản phẩm từ cao lanh. Bước đầu thăm dò và khai thác các khoáng sản quý hiếm.

Sắp xếp và sử dụng hợp lý năng lực các sơ sở sửa chữa, chế tạo của các nhà máy cơ khí trong tỉnh. Phát triển mạnh thuỷ điện nhỏ. Đẩy mạnh sản xuất vật liệu xây dựng. Quản lý, tu sửa các tuyến đường chính, từng bước xây dựng một số tuyến đường 27, Cát Tiên, đường 8 và Đầm Ròn. Phát triển mạnh giao thông nông thôn. Tăng cường công tác thông tin, bưu điện.

Biện pháp chủ yếu phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là củng cố các sơ sở quốc doanh hiện có và cơ sở tiểu thủ công nghiệp trên các địa bàn. Liên kết chặt chẽ giữa sản xuất quốc doanh, tập thể và gia đình. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong ngành công nghiệp; khuyến khích phát triển sản xuất, tăng nhanh thu nhập cho người lao động.

Đẩy mạnh xuất nhập khẩu, mở rộng du lịch và giao dịch quốc tế. Tăng nhanh và ổn định các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là cà phê, chè, gỗ, nhựa thông, tơ tằm; mở rộng dần xuất khẩu hàng gia công, thủ công mỹ nghệ. Mở rộng xuất-nhập khẩu hàng hoá với các nước xã hội chủ nghĩa, trước hết là Liên Xô, nhập vật tư, nguyên liệu, hàng tiêu dùng, trong đó, tư liệu sản xuất chiếm 70-80% giá trị hàng nhập. Phấn đấu đến năm 1990, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 25-27 triệu rúp /năm.

Phát triển du lịch, trọng tâm là thành phố Đà Lạt, phấn đấu bình quân 3-4 ngàn khách nội địa/ngày, chuẩn bị điều kiện để đón nhận thêm khách nước ngoài.

Dưới sự hướng dẫn của Trung ương, tỉnh mở rộng hợp tác về khoa học-kỹ thuật, kinh tế-văn hoá với các nước xã hội chủ nghĩa, trước hết là Liên xô.

Phát triển các vùng sản xuất, từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế nông-lâm-công nghiệp trên địa bàn huyện. Các huyện Đức Trọng, Đơn Dương tập trung trồng cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, phát triển chăn nuôi ; vùng Di Linh, Bảo Lộc phát triển trồng cây cà phê, chè, dâu tằm, cây ăn quả, cây lương thực, chăn nuôi. Vùng Đạ Huoai kết hợp kinh doanh nghề rừng với phát triển cây công nghiệp, chăn nuôi, công nghiệp chế biến sản phẩm tre nứa. Vùng Lạc Dương, tổ chức cho đồng bào dân tộc ít người làm nghề rừng, trồng cà phê, chăn nuôi bò. Thành phố Đà Lạt phát triển du lịch nghỉ dưỡng, sản xuất tiểu thủ công nghiệp, chuyên canh rau đi đôi với trồng chè, cà phê, cây ăn trái đặc sản, công nghiệp chế biến.

Làm chủ lưu thông phân phối, tập trung sức đầu tư thúc đẩy sản xuất phát triển, nắm hàng, tiền, cân đối thu chi ngân sách, vươn lên làm chủ thị trường góp phần ổn định sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân. Sắp xếp lại hệ thống cung ứng vật tư và dịch vụ kỹ thuật từ tỉnh đến huyện, thành phố và cơ sở theo hướng gọn nhẹ; hàng hoá đến cơ sở và người tiêu dùng bằng hợp đồng kinh tế. Thiết lập trật tự thị trường lưu thông phân phối; củng cố vững chắc thương nghiệp xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ mọi hình thức ngăn sông cấm chợ để lưu thông hàng hoá. Công tác tài chính tín dụng tập trung đầu tư phát triển sản xuất và du lịch, dịch vụ.

Xây dựng củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Xây dựng và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh vững mạnh đủ điều kiện chi phối và thu hút các thành phần kinh tế khác. Phấn đấu đến năm 1990, mỗi huyện và thành phố phải xây dựng được 2/3 số hợp tác xã, tập đoàn sản xuất đạt loại khá và phần lớn xí nghiệp quốc doanh làm ăn có tích luỹ thực sự.

Đối với thành phần kinh tế cá thể và tư nhân, tiếp tục vận động, tổ chức liên kết kinh tế dưới nhiều hình thức với đơn vị tập thể, quốc doanh theo nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi; xóa bỏ tư sản thương nghiệp.

Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phương hướng chung là xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lấy kế hoạch làm trung tâm.

Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý kinh tế, từng bước hoàn chỉnh cơ chế quản lý mới bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của đơn vị kinh tế cơ sở, gắn liền với mở rộng tự chủ kinh tế cho huyện và thành phố. Phân công lại chức năng, quyền hạn quản lý kinh tế giữa tỉnh, huyện và thành phố, tạo cho huyện đủ quyền hạn và điều kiện trực tiếp điều hành sản xuất có hiệu quả cao, thực sự chăm lo đời sống nhân dân.

Đối với vùng đồng bào dân tộc gốc địa phương, có chính sách thích hợp về thuế, hợp đồng hai chiều, thu mua sản phẩm… để sử dụng có hiệu quả lao động tại chỗ nhằm bảo đảm đời sống, tạo bước chuyển biến về kinh tế-xã hội.

Ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học-kỹ thuật vào sản xuất. Trong nông nghiệp, nghiên cứu kỹ thuật trồng lúa, ngô, chè, cà phê, dâu tằm, phòng trừ sâu bệnh. Trong lâm nghiệp, tập trung thử nghiệm trồng rừng cho nhu cầu công nghiệp và dân dụng, xây dựng mô hình nông-lâm kết hợp. Trong công nghiệp, nghiên cứu chế tạo máy chế biến cà phê nhân, thuỷ điện nhỏ, sản xuất sản phẩm từ nguyên liệu địa phương.

Đại hội xác định chính sách xã hội có quan hệ hữu cơ với chính sách kinh tế, coi trọng phát huy yếu tố con người, hướng tới mục đích phục vụ con người. Tập trung giải quyết việc làm cho người lao động ở thành phố, thị trấn; vùng nông thôn làm kinh tế vườn, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu và dịch vụ. Đưa phần lớn đồng bào dân tộc ít người vào làm nghề rừng, trồng cây công nghiệp, kinh tế vườn. Có kế hoạch nhận 10-12 vạn nhân khẩu đến xây dựng kinh tế mới.

Phấn đấu hạ tỷ lệ dân số từ 2,44% năm 1985 xuống còn 1,8% năm 1990.

Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, phù hợp với mục tiêu phân công lao động trên địa bàn huyện, thành phố, tỉnh và cả nước.

Hoạt động văn hoá, tiến hành đồng thời trên cả ba mặt: tư tưởng mới, nền văn hoá mới và con người mới; xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, chăm lo củng cố bộ máy làm công tác văn hoá, văn nghệ từ tỉnh đến cơ sở. Phấn đấu đến năm 1990, tất cả các đơn vị cơ sở đều có tổ chức và hoạt động văn hoá.

Nghị quyết Đại hội nêu rõ cần quán triệt các quan điểm y học dự phòng, kết hợp y học hiện đại và cổ truyền; kiện toàn mạng lưới y tế cơ sở trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Phấn đấu một ngàn dân có từ 24-26 giường bệnh; giảm tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét xuống 1/3 so với năm 1986, không để xảy ra dịch sốt rét. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh.

Công tác thể dục-thể thao góp phần khôi phục và tăng cường sức khoẻ của nhân dân. Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào thể dục-thể thao quần chúng.

Thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước đối với gia đình thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, chính sách hậu phương quân đội và chính sách xã hội trong tỉnh.

Tạo mọi điều kiện sớm ổn định sản xuất và đời sống, phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tổ chức sản xuất theo hướng định canh, định cư, phát triển mạnh kinh tế gia đình gắn với phát triển nông-lâm trường; tổ chức làm ăn tập thể dưới hình thức tổ đoàn kết sản xuất và các hợp tác xã phù hợp với trình độ vùng dân tộc; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông vận tải, thuỷ lợi, cơ sở chế biến nông sản. Phấn đấu đến 1990 có 2/3 số xã vùng dân tộc có nhà văn hoá. Đặc biệt, chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo.

Nghị quyết Đại hội xác định nhiệm vụ an ninh quốc phòng trong những năm 1986-1990: Tăng cường khối đoàn kết các dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ra sức củng cố lực lượng cách mạng ở cơ sở vững mạnh. Kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế với quốc phòng và an ninh. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc. Không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng và sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trên, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xác định 6 công tác lớn:

Tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược, đường lối quân sự quốc phòng của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới cho toàn Đảng bộ, nhân dân. Ra sức củng cố lực lượng cách mạng ở cơ sở, phát động phong trào quần chúng, giải quyết căn bản vấn đề FULRO gắn với xây dựng toàn diện vùng đồng bào dân tộc.

Đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng xã, phường, thị trấn, cơ quan, xí nghiệp an toàn, trật tự; đấu tranh kịp thời và làm thất bại âm mưu hoạt động của bọn tình báo, gián điệp, biệt kích, phản động, ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực và tệ nạn xã hội. Đấu tranh chống địch phá hoại kinh tế, chống đầu cơ buôn lậu, làm hàng giả. Phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa.

Tăng cường công tác bảo vệ nội bộ, bảo vệ bí mật quốc gia, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa, chống địch phá hoại về chính trị, tư tưởng, văn hoá.

Đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân và an ninh nhân dân vững mạnh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Xây dựng lực lượng vũ trang ở cơ sở, phấn đấu trong 3 năm tới phát triển dân quân tự vệ đạt từ 5-6% dân số.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang và công an nhân dân tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, nhân dân, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi.

Nghị quyết nêu rõ các giải pháp để phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Trên quan điểm lấy dân làm gốc, công tác vận động quần chúng cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và phát huy mạnh mẽ ý thức, năng lực làm chủ tập thể và mọi khả năng sáng tạo của quần chúng, thu hút quần chúng tham gia trực tiếp vào thực hiện cơ chế quản lý mới. Các cấp uỷ, chính quyền và mọi cán bộ, đảng viên thấm nhuần quan điểm quần chúng và nâng cao trách nhiệm phục vụ nhân dân, khắc phục có hiệu quả các khuyết điểm về vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Thực hiện đúng đắn cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Cải tiến phương thức hoạt động của các đoàn thể: công đoàn chuyển mạnh hoạt động xuống cơ sở. Hội nông dân tích cực củng cố và phát triển phong trào xây dựng hợp tác xã, xây dựng nông thôn mới. Quan tâm giải quyết việc làm và công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho thanh niên. Phát động sâu rộng phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Tăng cường công tác vận động, tập hợp và phát huy năng lực cống hiến cho sự nghiệp cách mạng địa phương của đội ngũ trí thức. Mặt trận Tổ quốc tỉnh phát huy vai trò chính trị quan trọng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo và dân tộc. Đảng bộ lãnh đạo thực hiện tốt hơn chính sách dân tộc của Đảng trên cơ sở đẩy mạnh công tác định canh, định cư. Phát triển sản xuất, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào tôn giáo, đồng bào dân tộc.

Tăng cường kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp, sắp xếp lại bộ máy gọn nhẹ, có hiệu lực; phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính với sản xuất-kinh doanh; đẩy mạnh xây dựng huyện một cách toàn diện; phân cấp cho huyện, thành phố thực sự trở thành một cấp quản lý hành chính, kinh tế.

Để tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, trước hết cần phát huy vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp thực sự là cơ quan quyền lực của Nhà nước ở địa phương. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực và phẩm chất đạo đức, đảm bảo đến năm 1990, đại bộ phận cán bộ lãnh đạo và quản lý từ tỉnh đến xã, phường đều qua các lớp bồi dưỡng về kiến thức quản lý Nhà nước.

Về nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng bộ, Đại hội lần thứ IV Đảng bộ tỉnh đánh giá: ba năm qua, Đảng bộ đã có nhiều cố gắng trong công tác xây dựng Đảng. Qua thực hiện Nghị quyết 02-NQ/TU của Ban thường vụ Tỉnh uỷ, công tác tổ chức, hệ thống bộ máy các cấp được củng cố, kiện toàn một bước. Song công tác tổ chức còn nhiều mặt trì trệ, chưa đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ kinh tế-xã hội. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh xác định: trước hết phải có bước chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây dựng Đảng, đặc biệt phải đổi mới tư duy, đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, phong cách và lối làm việc, coi đó là những khâu then chốt để thực hiện nhiệm vụ đã đề ra.

Theo hướng đổi mới đó, Nghị quyết Đại hội nêu một số nhiệm vụ của công tác xây dựng Đảng. Nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng là đổi mới tư duy và nâng cao phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Để đổi mới cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục lý luận gắn với tổng kết thực tiễn, quán triệt sâu sắc hơn nữa đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, cung cấp nội dung khoa học cho việc đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế. Cùng với việc đổi mới tư duy, công tác tư tưởng hướng mạnh vào bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lập trường vững vàng trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường cho cán bộ, đảng viên, nhân dân.

Đổi mới, kiện toàn đội ngũ cán bộ các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Đổi mới phong cách làm việc, chấp hành nghiêm chỉnh các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Nâng cao chất lượng đảng viên, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực là nhiệm vụ quan trọng, vừa cơ bản, vừa cấp bách của công tác xây dựng Đảng. Coi trọng, củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng.

Việc xây dựng tổ chức cơ sở Đảng phải gắn liền với xây dựng, tăng cường cấp huyện và xây dựng Đảng bộ huyện, thành phố vững mạnh. Sớm kiện toàn bộ máy cấp huyện, thành, đảm bảo năng lực lãnh đạo toàn diện. Phân cấp quản lý và tạo điều kiện cho huyện, thành quản lý kinh tế-xã hội và các mặt khác một cách chủ động. Phấn đấu đến năm 1990 có 4 huyện đạt tiêu chuẩn Đảng bộ vững mạnh. Tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng bộ.

II. TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI THỰC HIỆN CÁC CHƯƠNG TRÌNH KINH TẾ LỚN CỦA ĐẢNG

Từ ngày 15 đến 18-12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến hành. Đại hội đặt ra yêu cầu trong việc đánh giá tình hình là “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”, đánh giá đúng những thành tích đã đạt được, đồng thời kiểm điểm những mặt yếu kém, phân tích sâu sắc những sai lầm và khuyết điểm, vạch rõ nguyên nhân, nêu biện pháp khắc phục, xác định nhiệm vụ và mục tiêu phấn đấu trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.

Đại hội toàn quốc của Đảng khẳng định những thành tựu quan trọng đã đạt được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 1981-1985, đồng thời nghiêm túc nhìn nhận ba khuyết điểm lớn: chủ quan duy ý chí; cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư không đúng; cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội.

Đại hội đề ra chủ trương, trước hết là đổi mới kinh tế. Sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, đảm bảo nền kinh tế phát triển ổn định. Đẩy mạnh thực hiện ba chương trình kinh tế: lương thực-thực phẩm; hàng tiêu dùng; hàng xuất khẩu. Tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp từng bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Đại hội VI của Đảng đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên ba nguyên tắc: cải tạo xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải dựa theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi thích hợp; coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ; phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt: chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đề ra chủ trương: phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý là xoá bỏ tập trung quan liệu bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế. Cơ chế đó bao gồm các đặc trưng: Nhà nước quản lý nền kinh tế quốc dân theo một kế hoạch thống nhất; sử dụng đúng đắn và đẩy đủ quan hệ hàng hoá-tiền tệ; sản xuất gắn với thị trường và phải thực hiện hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện tốt chủ trương trên, Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác.

Đại hội VI của Đảng mở ra đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước chuyển biến rất quan trọng trong nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV đã diễn ra trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi sự lãnh đạo nhạy bén, sáng tạo của các cấp uỷ Đảng từ tỉnh đến cơ sở.

Đường lối đổi mới của Đảng trên lĩnh vực quản lý kinh tế thể hiện trên ba quan điểm lớn là đổi mới cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa.

Cụ thể hoá đường lối đổi mới của Đảng, tỉnh đã thực hiện một số chủ trương, chính sách mới trong sản xuất, kinh doanh. Quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh của các cơ sở sản xuất bước đầu được phát huy. Cơ quan quản lý Nhà nước các cấp tập trung khắc phục tình trạng quan liêu, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế.

Tuy nhiên, nền kinh tế của cả nước nói chung, của tỉnh nói riêng còn rất nhiều khó khăn. Sản xuất nông nghiệp chưa vững chắc. Chưa phát huy được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh để phát triển tiểu thủ công nghiệp, thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa chưa được củng cố, tăng cường; chưa phát huy được năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế. Hoạt động khoa học-kỹ thuật chưa giải quyết được những mục tiêu chủ yếu trong sản xuất và đời sống. Lĩnh vực phân phối lưu thông tiếp tục rối ren. Giá cả thị trường tiếp tục tăng cao, lạm phát phi mã, đời sống của nhân dân gặp khó khăn. Công tác lãnh đạo còn nhiều bảo thủ, trì trệ… làm hạn chế đến việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.

Trong bối cảnh đó, tháng 4-1987 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai (khoá VI) đã tập trung bàn những vấn đề cấp bách về lưu thông phân phối, chủ trương phấn đấu “4 giảm” (giảm bội chi ngân sách, giảm tốc độ tăng giá, giảm lạm phát, giảm khó khăn về đời sống), quyết định bỏ chế độ hai giá, thực hiện một giá, tạo thị trường thống nhất trong cả nước, xoá bỏ “cấm chợ ngăn sông”.

Tháng 8-1987, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba họp, quyết định chuyển hướng hoạt động của các đơn vị công nghiệp quốc doanh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý Nhà nước về kinh tế. Tháng 11-1987, Hội đồng bộ trưởng ban hành Quyết định số 217/QĐ-HĐBT thể chế hoá Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3.

Ngày 5-4-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Nghị quyết xác định : Nông dân là lực lượng rất cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa, nông thôn là địa bàn trọng yếu của cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa; nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Nghị quyết xác định hợp tác xã là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản; hộ gia đình xã viên là đơn vị nhận khoán với hợp tác xã, thay thế cơ chế khoán theo Chỉ thị 100. Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế kinh tế tự chủ của đơn vị kinh tế quốc doanh, hợp tác xã nông nghiệp. Nghị quyết 10 đáp ứng yêu cầu của sản xuất và đời sống, phù hợp nguyện vọng của nhân dân.

Vận dụng những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 3 (khoá IV) ra Nghị quyết 01-NQ/TU ngày 17-1-1987, về phương hướng nhiệm vụ kinh tế-xã hội năm 1987. Nghị quyết đề ra chủ trương sắp xếp và chuyển hướng một bước cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý; từng bước ổn định kinh tế-xã hội, trước hết là ổn định giá-lương-tiền; chỉ đạo thực hiện ba chương trình kinh tế lớn. Tập trung sức phát triển nông nghiệp toàn diện, gắn nông nghiệp-lâm nghiệp với công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ngay từ đầu và từ cơ sở nhằm giải quyết từng bước vững chắc về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

Chuyển hướng đầu tư sản xuất lương thực-thực phẩm theo chiều sâu, vừa thâm canh tăng vụ, vừa mở rộng diện tích. Phấn đấu đạt 140.000 tấn lương thực quy thóc năm 1987. Phát triển cây mía đảm bảo nguyên liệu chế biến đường ở địa phương. Thâm canh và mở rộng diện tích cây công nghiệp trong các đơn vị kinh tế quốc doanh, tập thể, gia đình. Hoàn thành định canh, định cư gắn với phát triển kinh tế vườn và nghề rừng cho đồng bào dân tộc.

Sắp xếp lại và đẩy mạnh sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng, phân công, phân cấp quản lý giữa tỉnh, huyện, thành phố và cơ sở. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong liên kết, liên doanh và hướng dẫn đối với kinh tế tập thể, gia đình. Sử dụng và khai thác mọi năng lực, tay nghề, tiền vốn, kỹ thuật của thành phần kinh tế tư nhân để mở rộng sản xuất hàng tiêu dùng từ nguyên liệu địa phương phục vụ cho nhu cầu nhân dân trong tỉnh và tạo quỹ hàng hoá liên kết, trao đổi với tỉnh bạn. Củng cố, sắp xếp lại các cơ sở cơ khí hiện có để phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Đảm bảo nhu cầu về điện và chất đốt.

Về xuất-nhập khẩu và du lịch, tập trung đầu tư cho sản xuất và chế biến các sản phẩm chè, cà phê, tơ tằm xuất khẩu. Chế biến phần lớn lâm sản thành sản phẩm có giá trị để xuất khẩu như gỗ, ván ép… Mở rộng sản xuất và xuất khẩu nông sản như rau, hoa cao cấp, dược phẩm Atisô… Tổ chức các hình thức gia công xuất khẩu như đan len, thêu, may mặc. Năm 1987 phấn đấu xuất khẩu đạt 12 triệu rúp .

Trên cơ sở xuất khẩu, thực hiện nhập khẩu tư liệu sản xuất (chiếm 80% tổng giá trị nhập khẩu), hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu khác của nền kinh tế địa phương và một phần cho đời sống.

Cải tiến phương thức kinh doanh, nâng cao chất lượng phục vụ, phân công phân cấp quản lý giữa ngành và thành phố nhằm khai thác tốt tiềm năng du lịch, nghỉ dưỡng của địa phương, làm cho du lịch thực sự là mũi nhọn kinh tế của tỉnh.

Đầu tư tập trung, đảm bảo cơ sở hạ tầng đồng bộ, phát triển dịch vụ khoa học-kỹ thuật, phân bố lại lao động, dân cư, phục vụ có hiệu quả ba chương trình kinh tế lớn. Khai thác và phát triển các công trình thuỷ lợi, phát triển hệ thống dịch vụ kỹ thuật phục vụ sản xuất nông-lâm nghiệp. Tổ chức tốt hệ thống vận tải từ tỉnh đến huyện, phát triển giao thông nông thôn; sắp xếp, củng cố mạng lưới cơ khí và xác định phương hướng sản xuất, cơ cấu sản phẩm phục vụ sản xuất, tiêu dùng trên từng địa bàn trong tỉnh. Nâng cấp, sửa chữa, quản lý tốt hệ thống điện, hệ thống thông tin liên lạc phục vụ sản xuất, đời sống. Đầu tư toàn diện, đồng bộ địa bàn Cát Tiên, Đạ Tẻh, Đạ Huoai; giãn dân tại chỗ, hình thành điểm dân cư mới gắn với tổ chức sản xuất nông-lâm nghiệp.

Củng cố và tăng cường vai trò chỉ đạo của các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa đồng thời cải tạo và mạnh dạn sử dụng các thành phần kinh tế khác, xây dựng các mô hình tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở từng vùng và từng ngành sản xuất, kinh doanh. Chú trọng xây dựng cơ sở quốc doanh sản xuất đối với các mặt hàng chủ yếu trong nông nghiệp như chè, cà phê. Gắn kinh tế quốc doanh với tập thể và hộ gia đình trên từng sản phẩm, từng địa bàn.

Củng cố và tăng cường chế độ quản lý, chế độ phân phối thu nhập trên cơ sở hoàn thiện chế độ sở hữu tư liệu sản xuất trong các đơn vị kinh tế tập thể. Sắp xếp lại tư thương, có chính sách phù hợp chuyển một bộ phận sang sản xuất, dịch vụ hoặc liên kết liên doanh với các đơn vị quốc doanh, tập thể. Xoá bỏ tư bản thương nghiệp, tăng cường quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu.

Coi trọng công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, gắn việc phát triển sản xuất với củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, thực sự chuyển sang hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Thực hiện đồng bộ Nghị quyết 306 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 76 của Hội đồng Bộ trưởng về đảm bảo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở. Cho phép các cơ sở quốc doanh và tập thể được liên kết với các cơ sở trong tỉnh và ngoài tỉnh để đẩy mạnh sản xuất. Phân biệt chức năng quản lý hành chính kinh tế của ngành, các huyện, thành phố với chức năng sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở và không can thiệp vào hoạt động tác nghiệp của cơ sở. Tiếp tục phân công, phân cấp và tăng khả năng chủ động của huyện, thành phố và cơ sở, đồng thời đảm bảo tính tập trung, thống nhất trong tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh. Hoàn chỉnh quy hoạch ngành, trước hết là ngành nông, lâm, công nghiệp, giao thông vận tải trên từng địa bàn huyện, thành phố, tỉnh và mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, quan hệ ngành và lãnh thổ. Điều chỉnh, sắp xếp lại tổ chức sản xuất và mô hình quản lý đối với ngành chè, cà phê, dâu tằm, dược, lâm nghiệp, xuất nhập khẩu và du lịch.

Tăng cường chỉ đạo công tác phân phối lưu thông, giảm tốc độ tăng giá, từng bước ổn định thị trường, giá cả và đời sống. Chấn chỉnh, sắp xếp và quản lý trên mặt trận phân phối lưu thông, củng cố tăng cường thương nghiệp quốc doanh, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng. Hệ thống cung ứng vật tư, tài chính, ngân hàng theo phương thức kinh doanh mới. Thực hiện giá bán lẻ hàng tiêu dùng theo một giá kinh doanh thương nghiệp trên thị trường. Cải tiến các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng đáp ứng kịp thời các yêu cầu hợp lý của cơ sở.

Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học-kỹ thuật phục vụ ba chương trình kinh tế lớn. Phổ biến và tổ chức phong trào quần chúng ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật vào sản xuất; triển khai các trạm thí nghiệm và thực nghiệm về giống cây trồng, vật nuôi. Tập hợp và khuyến khích đội ngũ cán bộ khoa học-kỹ thuật của tỉnh tham gia vào việc đưa tiến bộ khoa học-kỹ thuật vào sản xuất. Mở rộng hợp tác khoa học-kỹ thuật với các cơ sở trong nước và nước ngoài. Nâng cao vai trò tham mưu và chức năng quản lý Nhà nước của Uỷ ban khoa học-kỹ thuật của tỉnh.

Thực hiện Nghị quyết 02-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng, trong 6 tháng đầu năm 1987 tỉnh đã giành phần lớn vốn đầu tư cho các vùng lương thực-thực phẩm và cây công nghiệp dài ngày, tập trung chỉ đạo đồng bộ từ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đến tổ chức sản xuất; khuyến khích tư nhân và hộ gia đình bỏ vốn vào sản xuất, ưu đãi các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Tỉnh chỉ đạo một số cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các ngành kinh tế trọng điểm thí điểm hạch toán giá thành; khôi phục một bước tiền lương thực tế của người lao động ở cả khu vực sản xuất kinh doanh và hành chính sự nghiệp.

Những cố gắng đó đã góp phần giảm bớt khó khăn trong sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân. Vùng sản xuất lương thực, thực phẩm Đạ Tẻh, Cát Tiên vừa tiếp nhận thêm dân vào xây dựng kinh tế mới, vừa mở rộng diện tích đất sản xuất, củng cố và tăng cường cơ sở vật chất hạ tầng. Cây cà phê phát triển ở khu vực tập thể, hộ gia đình và cá thể. Hàng tiêu dùng tăng so với năm 1986, phát triển thêm 30 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp tư nhân, giải quyết việc làm cho trên 1.000 lao động. Một số đơn vị sản xuất kinh doanh hạch toán giá thành, bước đầu có chuyển biến về nhận thức và cách làm, sản phẩm được thị trường chấp nhận.

Tuy nhiên, tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh phát triển không ổn định, các chỉ tiêu kế hoạch đạt thấp. Đặc biệt, lĩnh vực phân phối lưu thông diễn biến ngày càng xấu và phức tạp hơn. Sản xuất lương thực không đạt kế hoạch. Sản xuất công nghiệp tuy có bước phát triển đối với khu vực tập thể, tư nhân và hộ gia đình nhưng tốc độ chậm. Chưa có sự chuyển biến rõ rệt trong thực hiện ba chương trình kinh tế lớn. Các cơ sở sản xuất quốc doanh và tập thể thiếu vật tư, nguyên liệu, vốn; năng suất lao động giảm. Nhiều sản phẩm quan trọng chỉ đạt 30-40% kế hoạch.

Trên lĩnh vực phân phối lưu thông, phương thức kinh doanh chưa chuyển kịp theo yêu cầu nên chưa nắm được phần lớn hàng, tiền; tư thương chi phối thị trường; giá hàng hoá tăng nhanh. Bội chi tiền mặt ngày càng lớn. Việc thực hiện mục tiêu “4 giảm” gặp rất nhiều khó khăn.

Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do không đồng bộ và cương quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chậm chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, trước hết là trong phân phối lưu thông. Vì vậy, đã kìm hãm sản xuất phát triển, không giải phóng được năng lực sản xuất và sức lao động. Sự chỉ đạo, điều hành của các cấp, các ngành, cơ sở còn nhiều khuyết điểm.

Để đề ra chủ trương, biện pháp nhằm hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch kinh tế-xã hội năm 1987, giải quyết một số vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2, Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 5 (Khoá IV) đã ra Nghị quyết số 09 ngày 23-7-1987. Nghị quyết nêu một số chủ trương, giải pháp cụ thể:

Về sản xuất, lĩnh vực nông nghiệp tiến hành các biện pháp thâm canh, tăng vụ, phấn đấu đạt 140.000 tấn lương thực quy thóc. Đầu tư cho trồng mới chè, cà phê, dâu tằm, cây mía, phấn đấu vượt kế hoạch 700 ha trong năm 1987; mở rộng chăn nuôi. Ngành lâm nghiệp khai thác các sản phẩm lâm nghiệp phục vụ cho sản xuất. Tiếp tục giao đất giao rừng cho tập thể và hộ gia đình quản lý, kinh doanh, tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc chăm sóc bảo vệ rừng. Khuyến khích hộ gia đình, tư nhân phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp, chế biến nông sản, mở rộng việc hợp tác với thành phố Hồ Chí Minh và làm gia công cho nước ngoài. Tập trung cho các công trình xây dựng cơ bản trọng điểm theo kế hoạch.

Đối với nông nghiệp, để sử dụng ruộng đất tiết kiệm có hiệu quả và bảo đảm công bằng về nghĩa vụ đối với Nhà nước, tất cả các đơn vị quốc doanh, tập thể, cá thể sử dụng đất nông nghiệp đều phải nộp thuế theo quy định của Nhà nước. Đối với cây lương thực do đồng bào dân tộc trực tiếp canh tác, tạm thời miễn giảm 30% mức thuế nông nghiệp. Thu thuế vườn trên đất thổ cư theo quy định của Nhà nước. Từng bước xoá bỏ chế độ trao đổi bằng hiện vật giữa Nhà nước và nông dân, thực hiện chế độ hợp đồng kinh tế trong việc bán vật tư và mua nông sản theo giá thoả thuận. Đối với các xí nghiệp quốc doanh, từ tháng 8-1987, tiến hành sản xuất kinh doanh theo cơ chế mới. Bước đầu tính đúng, tính đủ các yếu tố “đầu vào”, bán sản phẩm theo khung giá quy định, được thị trường chấp nhận và có tích luỹ cho Nhà nước. Đối với cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, các tổ chức kinh doanh của Nhà nước bán vật tư theo giá kinh doanh thương nghiệp và mua sản phẩm theo giá thoả thuận qua hợp đồng kinh tế hoặc đơn đặt hàng. Người sản xuất được quyền tiêu thụ sản phẩm ngoài hợp đồng kinh tế theo chính sách lưu thông hàng hoá của Nhà nước.

Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phải thực sự chuyển sang kinh doanh, tác động vào sản xuất, nắm tuyệt đại bộ phận sản phẩm hàng hoá, vươn lên chiếm lĩnh 60% thị trường trong 6 tháng cuối năm 1987. Tăng cường cải tạo tư thương và quản lý thị trường. Xoá bỏ tư bản thương nghiệp. Việc mua bán vật tư, thiết bị, hàng hoá giữa các tổ chức kinh tế thực hiện theo hợp đồng kinh tế trên cơ sở ngang giá. Hoạt động xuất nhập khẩu phải phục vụ ba chương trình kinh tế lớn: lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu của địa phương và chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, phục vụ cho nền kinh tế địa phương.

Để giải quyết tiền lương và đảm bảo đời sống của công nhân viên chức, lực lượng vũ trang, Nghị quyết nêu chủ trương khôi phục 40% tiền lương thực tế so với tháng 9-1985, coi đó là lương cơ bản để tính các khoản phụ cấp. Thực hiện bù giá vào lương từ tháng 8 năm 1987 cho các đối tượng hưởng trợ cấp xã hội. Khoán quỹ lương cho các cơ quan hành chính sự nghiệp đã giảm biên chế. Cấp đất hoặc cho mượn đất để công nhân viên chức làm kinh tế vườn và phát triển nghề phụ. Đảm bảo cung cấp đủ số lượng, chất lượng và định lượng lương thực, thực phẩm cho lực lượng vũ trang.

Chính sách tài chính phải tạo nguồn theo hướng thúc đẩy kinh tế quốc doanh chuyển sang hạch toán kinh doanh đạt hiệu quả cao và phát triển sản xuất trong các thành phần kinh tế khác. Ngân hàng chuyển mạnh sang kinh doanh tiền tệ, mở rộng các dịch vụ ngân hàng, huy động tiền nhàn rỗi trong xã hội vào lưu thông.

Sau triển khai Nghị quyết 09-NQ/TU của Tỉnh uỷ, sản xuất, nhất là sản xuất lương thực tiếp tục có bước phát triển. Cây công nghiệp dài ngày, chủ yếu là cây cà phê phát triển nhanh trong khu vực kinh tế gia đình và cá thể. Chăn nuôi phục hồi. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển, thu hút thêm 1.000 lao động thành thị chưa có việc làm. Một số cơ sở sản xuất quốc doanh sản xuất kinh doanh khá hơn. Sản phẩm trà, đường, vật liệu xây dựng tăng. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã tập trung hơn cho nông nghiệp.

Tuy nhiên, tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh phát triển chưa đều, chưa vững chắc và còn khó khăn trên nhiều mặt. Sản xuất lương thực, thực phẩm chưa ổn định; chất lượng cây công nghiệp dài ngày còn kém; kinh tế quốc doanh còn nhiều yếu kém. Tình hình phân phối lưu thông còn rối ren. Hoạt động xuất nhập khẩu còn yếu. Đời sống phần lớn người ăn lương khó khăn.

Ngày 27-11-1988, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh mở hội nghị bàn về phương hướng nhiệm vụ kinh tế-xã hội ba năm 1988-1990, hội nghị ra nghị quyết số 11-NQ/TU đề ra nhiệm vụ: ổn định một bước quan trọng tình hình kinh tế-xã hội, chuẩn bị điều kiện cho phát triển những năm sau. Phát triển mạnh sản xuất hàng hoá, tập trung thực hiện ba chương trình kinh tế chuyển mạnh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, khai thác mọi năng lực của các thành phần kinh tế.

Tập trung phát triển nông nghiệp toàn diện. Tổ chức lại sản xuất lâm nghiệp. Sắp xếp lại và phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo hướng ưu tiên điều kiện vật chất cho các cơ sở làm ăn có hiệu quả.

Trong xây dựng cơ bản, tập trung hoàn thành ba công trình trọng điểm: thuỷ lợi Đạ Tẻh, trạm hạ thế Bảo Lộc, hệ thống tải điện từ Nthol hạ đến Phú Sơn và sửa chữa, nâng cấp một số tuyến đường.

Trong ba năm 1988-1990, thực hiện đồng bộ các giải pháp: phát huy vai trò chỉ đạo của kinh tế quốc doanh, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất thực hiện khoán sản phẩm đến hộ gia đình, mở rộng ngành nghề, dự án định mức khoán trong nông nghiệp từ 3-5 năm. Giảm bớt mức tập thể hoá tư liệu sản xuất ở các hợp tác xã sản xuất không có hiệu quả. Vùng đồng bào dân tộc xây dựng các tổ đoàn kết, tổ đổi công theo từng thôn, khuyến khích mọi công dân đầu tư vào sản xuất, Nhà nước công nhận sự tồn tại làm ăn của kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, tư nhân; đảm bảo sự bình đẳng trước pháp luật trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Về phân phối lưu thông, từ quý I-1988, thực hiện cơ chế một giá, xoá bỏ chế độ tem phiếu và bán hàng cung cấp theo định lượng. Thực hiện trả lương theo sản phẩm, trong khu vực sản xuất kinh doanh; khu vực hành chính sự nghiệp từng bước khôi phục mức lương thực tế tháng 9-1985.

Ngân sách được phân cấp cho huyện và cơ sở một cách hợp lý trên cơ sở chính sách tài chính quốc gia. Ngân hàng chuyển sang hạch toán kinh doanh, đầu tư tín dụng cho sản xuất, kinh doanh.

Chuyển các ngành thương nghiệp, lương thực, vật tư, xuất nhập khẩu, du lịch sang kinh doanh. Củng cố hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa nhằm nắm 90% sản phẩm hàng hoá của địa phương và chi phối thị trường bán lẻ trong xã hội.

Tập trung phân bổ lao động, dân cư, giải quyết việc làm cho người lao động.

Tăng cường các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục-thể thao, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, phấn đấu đến năm 1990 xoá nạn mù chữ, phổ cập văn hoá cấp I cho những người trong độ tuổi ở Đà Lạt và các thị trấn, phổ cập cấp II cho công nhân viên chức, cán bộ chủ chốt ở cơ sở và cấp III cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh; cấp xã, phường đều có cơ sở y tế và cán bộ y tế chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Phấn đấu hạ tỷ lệ phát triển dân số xuống dưới 2% vào năm 1990.

Để triển khai Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, ngày 10-9-1988, Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 7 (Khoá IV) ra Nghị quyết 17 về đổi mới một số vấn đề quản lý kinh tế nông nghiệp, tập trung giải quyết một số vấn đề về nông nghiệp và nông thôn.

Cụ thể, sắp xếp, tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, đầu tư thích đáng vào vùng lương thực Đạ Tẻh, Cát Tiên, thi công và đưa vào sử dụng công trình thuỷ lợi Đạ Tẻh; đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất cây trồng, gắn trồng trọt với chăn nuôi. Tiếp tục trồng mới cây công nghiệp dài ngày: cà phê, chè, dâu tằm, mía, điều, hồ tiêu. Tổ chức lại sản xuất ngành chè, dâu tằm theo hướng gắn trồng trọt với công nghiệp chế biến với quy mô vừa và nhỏ, lấy quốc doanh làm trọng tâm để liên kết các thành phần kinh tế thông qua hợp đồng kinh tế. Ổn định diện tích và năng suất cây rau, phát triển cây dược liệu ở Đà Lạt. Sắp xếp và tổ chức lại việc sản xuất, kinh doanh nghề rừng, kết hợp chặt chẽ nông-lâm-công nghiệp chế biến. Sắp xếp lại bộ máy quản lý ngành lâm nghiệp. Thành lập Liên hiệp xí nghiệp lâm-công nghiệp trực tiếp quản lý sản xuất, kinh doanh nghề rừng. Sắp xếp, tổ chức sản xuất, phân công lại lao động tại chỗ, quy hoạch những vùng đất đai chưa khai phá, có khả năng phát triển nông nghiệp ở Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên, Lâm Hà để có kế hoạch đón dân kinh tế mới. Tổ chức lại sản xuất trong vùng đồng bào dân tộc theo phương thức nông-lâm kết hợp.

Tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế. Các đơn vị kinh tế quốc doanh trong nông nghiệp-lâm nghiệp chuyển sang cơ chế tự chủ, hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Chấn chỉnh tổ chức, đổi mới quản lý hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Đối với hợp tác xã khá và trung bình, củng cố toàn diện về bộ máy, công tác quản lý, chế độ phân phối phù hợp cơ chế quản lý mới. Với hợp tác xã yếu kém, tăng cường cán bộ có năng lực cho Ban quản trị và thực hiện cơ chế khoán thích hợp, tập thể nắm kế hoạch sản xuất, làm dịch vụ cho sản xuất, nắm sản phẩm, phân phối theo lao động. Các hợp tác xã mang tính hình thức thì chuyển sang tập đoàn sản xuất, tổ đoàn kết sản xuất. Củng cố các tập đoàn sản xuất hiện có. Với vùng đồng bào dân tộc, xây dựng tổ đoàn kết sản xuất gắn với phát triển kinh tế gia đình.

Thực hiện chế độ tự quản lý, chủ động sản xuất kinh doanh, mua sắm, chuyển nhượng tài sản của hợp tác xã, tập đoàn sản xuất. Ngoài thuế, nghĩa vụ, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất có quan hệ mua bán bình đẳng thông qua hợp đồng với các tổ chức kinh tế quốc doanh. Thực hiện chế độ khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và hộ xã viên, người lao động và đội sản xuất tuỳ theo điều kiện ngành nghề.

Về kinh tế gia đình, tạo điều kiện cho mỗi gia đình công nhân viên chức, xã viên hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, hộ cá thể phát triển kinh tế vườn theo đúng luật đất đai, phát triển chăn nuôi… để tăng sản phẩm cho xã hội và tăng thu nhập gia đình.

Để đáp ứng đường lối đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp, cần nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước và đổi mới công tác cán bộ.

Sau hai năm (1987-1988) khắc phục khó khăn, tiếp tục chuyển hướng các hoạt động kinh tế theo tinh thần đổi mới của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, các nghị quyết của Trung ương (Khoá VI), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IV và các nghị quyết của Tỉnh uỷ (Khoá IV), kinh tế-xã hội của tỉnh đã thu được kết quả bước đầu quan trọng.

Thực hiện chuyển hướng cơ cấu kinh tế, mặc dù vốn đầu tư của Nhà nước giảm mạnh (năm 1987 giảm 30,5%, năm 1988 giảm 25,2% so với năm 1986) nhưng tỉnh đã tập trung xây dựng được một số công trình cơ bản, trọng điểm như thuỷ lợi, sửa chữa một số đường giao thông, khai hoang và đón dân kinh tế mới, phát triển mạng lưới điện. Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối nhanh, hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp dài ngày, cây lương thực, rau…

Để giải phóng sức sản xuất và phát huy năng lực của các thành phần kinh tế, phong trào hợp tác hoá được điều chỉnh với những hình thức, bước đi thích hợp. Các đơn vị xã viên, hộ cá thể, tư nhân được mượn đất để trồng cây công nghiệp dài ngày và đầu tư gần 18 tỷ đồng cho sản xuất. Giá trị sản lượng nông nghiệp của khu vực tập thể, gia đình, cá thể, tư nhân chiếm 94,68% tổng sản lượng nông nghiệp của tỉnh.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, so với năm 1986, sản lượng tăng 24,2%, riêng khu vực ngoài quốc doanh chiếm 60,58% toàn ngành. Một số đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể chuyển sang hạch toán kinh doanh, vận dụng cơ chế khoán trong nông nghiệp, xây dựng cơ bản, vận tải, thương nghiệp.

Lĩnh vực lưu thông hàng hoá được mở rộng. Các thành phần kinh tế được thu mua, chế biến, tiêu thụ các hàng nông sản và hàng tiêu dùng. Nhà nước thu hẹp dần giá chỉ đạo và giá tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước nắm sản phẩm nhiều hơn và chủ động giành một số hàng hoá thế mạnh đổi lấy lương thực để cân đối tiêu dùng và tăng nguồn dự trữ. Thị trường lương thực không xảy ra đột biến. Ngân sách tăng nguồn thu, bảo đảm được nguồn chi tối thiểu. Một số đơn vị kinh tế của tỉnh ký được hợp đồng liên doanh sản xuất và thương mại với các tổ chức kinh tế nước ngoài.

Tổng sản phẩm xã hội hai năm (1987-1988) tăng 52,2%, thu nhập quốc dân tăng 64%; thu nhập quốc dân tính theo đầu người bình quân tăng 42,7% so với năm 1986. Trong nông nghiệp, cây chè, cà phê, dâu tằm, mía, điều phát triển mạnh ở khu vực kinh tế gia đình cá thể, tập thể. Diện tích và sản lượng lúa tăng. Ngành tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến chè, tơ tằm, mía, đường, vật liệu xây dựng ngoài quốc doanh phát triển, thu hút hàng ngàn lao động. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh năng động hơn trong sản xuất, kinh doanh. Đời sống nhân dân một số vùng trong tỉnh ổn định, một bộ phận được cải thiện. Các thị trấn, nhiều vùng nông thôn, nhất là trục giao thông chính có bước phát triển. Các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục-thể thao được duy trì. Các hoạt động kinh tế-xã hội bước đầu được dân chủ, công khai hoá, trở thành nhân tố thúc đẩy công cuộc đổi mới.

Tuy nhiên, nền kinh tế của tỉnh phát triển chưa đều, chưa mạnh và chưa toàn diện, chưa đi vào chiều sâu, hiệu quả thấp. Kinh tế quốc doanh chưa thoát khỏi cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp và còn yếu kém trì trệ. Lưu thông phân phối vẫn lúng túng, rối ren.

Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 9 (Khoá V) đã ra Nghị quyết 19-NQ/TU ngày 8-3-1989 xác định phương hướng, nhiệm vụ kinh tế-xã hội ba năm (1989-1991). Đảng bộ chỉ đạo tập trung mọi nỗ lực phát triển mạnh mẽ và toàn diện sản xuất nông nghiệp theo chiều sâu, trọng tâm là phát triển cây công nghiệp dài ngày, kinh doanh nghề rừng, phát triển chăn nuôi; phát triển ngành dâu tằm tơ thành một ngành kinh tế lớn của tỉnh. Thực hiện nông-lâm kết hợp gắn với tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp chế biến lâm sản nhằm phát huy thế mạnh của tỉnh. Tập trung đồng bộ các biện pháp khoa học-kỹ thuật để phát triển nông nghiệp. Mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài và tăng cường xuất khẩu.

Trên lĩnh vực lưu thông phân phối, từng bước xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sớm thực hiện cơ chế một giá theo quy định của Trung ương.

Về đổi mới cơ chế quản lý, chuyển toàn bộ các đơn vị kinh tế, trước hết là kinh tế quốc doanh sang cơ chế kinh doanh, thực hiện hạch toán đầy đủ, tự trang trải và tích luỹ để phát triển và đóng góp cho ngân sách. Thực hiện quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế cơ sở. Củng cố, tăng cường kinh tế quốc doanh để giữ vai trò chủ đạo.

Thực hiện nhất quán chính sách hàng hoá nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất. Mở rộng hợp tác hoá gắn liền với tập thể hoá thông qua cơ chế khoán đến hộ xã viên. Tư nhân, tiểu chủ được kinh doanh không hạn chế về quy mô, địa bàn hoạt động trong những ngành nghề sản xuất, xây dựng, vận tải, dịch vụ. Tư sản thương nghiệp được tiếp tục kinh doanh những ngành nghề mà luật pháp không cấm.

Về chủ trương, biện pháp xây dựng kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc, Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 15 (Khoá IV) đã ra Nghị quyết 22-NQ/TU, ngày 6-6-1990 đề ra mục tiêu tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác định canh, định cư, đảm bảo việc làm, tiến tới chấm dứt nạn thiếu đói giáp hạt, cải thiện đời sống; xây dựng bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể ở xã, thôn, buôn vững mạnh. Đảng bộ chỉ đạo tiếp tục rà soát, đánh giá, chuyển đại bộ phận hợp tác xã, tập đoàn sản xuất vùng dân tộc sang các hình thức phù hợp như: tổ đoàn kết sản xuất, tổ vần công đổi công, phát triển kinh tế gia đình và kinh tế cá thể. Các nông, lâm trường gắn với buôn làng và thu hút lao động người dân tộc bằng các cơ chế: khoán, đầu tư ứng trước vật tư, lương thực, thu lại sản phẩm sau…

Nguồn vốn đầu tư xây dựng vùng dân tộc tổng hợp từ ngân sách Trung ương, ngân sách của tỉnh, huyện, từ thuế tài nguyên, tập trung cho các xã Lộc Bắc, Lộc Lâm, Lộc Nam (Bảo Lộc), Gia Bắc, Đinh Trang Hoà, Bảo Thuận, Đinh Trang Thượng, Kon Rum (Di Linh). Các huyện Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên, Đức Trọng, Lâm Hà, Đơn Dương, ngân sách định canh, định cư do tỉnh và huyện cấp.

Về chính sách xã hội, đảm bảo đủ trường lớp, giáo viên cho vùng dân tộc; thanh toán nạn mù chữa cho người dân ở độ tuổi 35 trở xuống; thực hiện miễn học phí, cho mượn sách giáo khoa đối với học sinh dân tộc; phấn đấu thu hẹp tiến tới hạn chế đến mức thấp nhất dịch bệnh; thực hiện các chính sách xã hội và văn hoá đối với vùng dân tộc.

Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, đến năm 1990, kinh tế-xã hội của tỉnh đã có những chuyển biến tích cực. Cây công nghiệp tiếp tục tăng về diện tích và sản lượng; khai thác gỗ vượt kế hoạch. Công nghiệp chế biến chè, tơ tằm phát triển. Trong điều kiện nguồn vốn có hạn, tỉnh đã tập trung xây dựng hạ thế điện Bảo Lộc, Di Linh, nâng cấp một số tuyến đường giao thông ở Đà Lạt và các huyện. Các thành phần kinh tế tiếp tục được phát huy, nhất là trong nông nghiệp; đảm bảo được nhu cầu cần thiết về học tập, chữa bệnh của nhân dân và thực hiện các chính sách xã hội. Công tác chống buôn lậu, thất thu thuế thu được kết quả bước đầu. Công tác quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội đảm bảo, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị của địa phương.

Ngày 29-2-1990, Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 18 (khoá IV) ra Nghị quyết số 26-NQ/TU đề ra phương hướng chỉ đạo kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 1991. Tư tưởng chỉ đạo phát triển kinh tế-xã hội năm 1991 là phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách, đẩy mạnh sản xuất, mở rộng và phát triển ba chương trình kinh tế lớn, đảm bảo phân phối lưu thông, giữ vững sự ổn định về mọi mặt, tạo thế đi lên cho những năm tiếp theo. Nghị quyết đề ra chủ trương phát huy mọi khả năng của các thành phần kinh tế, khai thác các tiềm năng hiện có để tạo nguồn vốn phát triển sản xuất. Tiếp tục phát triển cây công nghiệp dài ngày theo hướng thâm canh và trồng mới; khai thác và chế biến lâm sản, quản lý chặt chẽ và khai thác chế biến một số khoáng sản, đá quý; mở rộng và nâng cao chất lượng chế biến chè, tơ tằm. Sắp xếp lại các đơn vị quốc doanh trên địa bàn tỉnh, giải quyết dứt điểm những cơ sở sản xuất thua lỗ kéo dài. Khuyến khích các nhà tư sản dân tộc, giới công-kỹ nghệ, tiểu chủ trong tỉnh bỏ vốn sản xuất kinh doanh theo Luật doanh nghiệp tư nhân và công ty. Giải quyết việc làm cho người lao động theo hướng phát triển sản xuất. Mở rộng các hình thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để đáp ứng nhu cầu học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hoá của nhân dân; thực hiện chính sách xã hội. Tiếp tục nâng cao năng lực quản lý và điều hành của bộ máy Nhà nước, tiếp tục cuộc vận động chỉnh đốn Đảng; bảo đảm an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đến năm 1991 tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh tiếp tục phát triển; tổng sản phẩm xã hội năm 1991 tăng 12,3%, thu nhập quốc dân sản xuất tăng 12,5%, sản xuất lương thực tăng 4,2% so với năm 1990. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển đúng hướng. diện tích cây chè và cà phê đạt 37.000 ha, tăng 22.000 ha so với năm 1985. Sản lượng lương thực hàng năm đạt từ 110.000 đến 130.000 tấn. Các loại cây thực phẩm được duy trì và phát triển. Đàn gia súc, gia cầm tăng. Sản lượng lâm nghiệp đạt kế hoạch góp phần cân đối ngân sách và hỗ trợ đời sống đồng bào dân tộc trên một số địa bàn.

Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn nhưng có tăng trưởng, trong đó công nghiệp chế biến chè, tơ tằm, gỗ và sản xuất vật liệu xây dựng tăng khá; có thêm sản phẩm mới là thiếc thỏi, đá ốp lát; hoạt động tiểu thủ công nghiệp được phát triển ở các nhóm hàng gia công thêu, đan len, dịch vụ sửa chữa…

Về giao thông, mở thêm một số đường mới và bảo dưỡng, nâng cấp các đường hiện có, cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Năng lực vận tải phát triển, đảm bảo nhu cầu đi lại của nhân dân và vận tải hàng hoá.

Mạng lưới thông tin liên lạc được mở rộng, chất lượng kỹ thuật và phục vụ được nâng lên, đáp ứng tốt hơn yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo và nhu cầu xã hội.

Về đầu tư phát triển kinh tế có chuyển biến trong điều chỉnh cơ cấu đầu tư, tập trung cho ba chương trình kinh tế, trong đó, nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Trong 5 năm, đầu tư khoảng 150 tỷ đồng, chủ yếu cho trồng mới và thâm canh cây công nghiệp dài ngày, một phần cho chế biến lâm sản và kết cấu hạ tầng. Nhờ chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư nên tuy vốn ngân sách giảm tổng vốn đầu tư mỗi năm đều tăng.

Về đổi mới kinh tế, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước; khơi dậy được tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất. Công tác kế hoạch hoá đã chuyển từ kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch định hướng là chủ yếu, mở rộng quyền chủ động của cơ sở, thu hẹp quan hệ sản xuất hiện vật, mở rộng quan hệ giá trị. Bộ máy Nhà nước từng bước chuyển sang thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, khắc phục dần sự điều hành tác nghiệp của cơ sở.

Từ giữa năm 1987, tỉnh chỉ đạo một số đơn vị kinh tế quốc doanh thí điểm hạch toán theo cơ chế mới. Đến giữa năm 1988, tỉnh đã chỉ đạo thực hiện hạch toán kinh doanh, phát huy tính chủ động sáng tạo của các đơn vị kinh tế và của người lao động, thúc đẩy sản xuất theo nhu cầu thị trường. Các đơn vị kinh tế quốc doanh nắm những bộ phận then chốt của nền kinh tế có bước vươn lên, thích ứng với cơ chế mới. Kinh tế tập thể trong nông nghiệp hầu hết thực hiện cơ chế khoán theo mức độ khác nhau; hộ gia đình xã viên trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng ruộng đất, từ đó, khơi dậy được được tiềm năng lao động và vốn của nông dân.

Về kinh tế tư nhân, có nhiều hộ cá thể, tiểu chủ bỏ vốn đầu tư và kinh doanh cây công nghiệp dài ngày, chăn nuôi, chế biến nông sản, lâm sản, sản xuất hàng tiêu dùng, vận tải, dịch vụ…, góp phần tăng thêm sản phẩm cho xã hội và giải quyết việc làm cho người lao động.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo tiếp tục phát triển, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Hệ giáo dục mầm non và phổ thông thí điểm loại hình trường bán công, huy động được sự đóng góp của nhân dân để phát triển giáo dục. Các trường chuyên nghiệp được duy trì, đổi mới nội dung và tăng cường số lượng đào tạo. Chất lượng dạy và học được nâng lên.

Công tác chăm lo sức khoẻ cho nhân dân có nhiều tiến bộ. Mạng lưới y tế từ tỉnh đến cơ sở được củng cố. Đến năm 1990 đã có 110/120 xã, phường có trạm y tế với số lượng nhân viên từ 1 đến 3 người/trạm. Số giường bệnh, đội ngũ thầy thuốc và cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng lên. Công tác tiêm chủng, khám và điều trị, kế hoạch hoá gia đình đạt hiệu quả tốt. Hội chữ thập đỏ được mở rộng hoạt động tích cực góp phần tuyên truyền, hướng dẫn bảo vệ sức khoẻ phòng và chữa bệnh cho nhân dân.

Đời sống của phần lớn nhân dân tương đối ổn định; một bộ phận được cải thiện, nhất là vùng cây công nghiệp dài ngày. Đời sống của đồng bào dân tộc ở vùng định canh, định cư có kinh tế vườn được nâng lên rõ rệt; giải quyết việc làm cho khoảng 65.000 lao động. Nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành chữa bệnh của nhân dân được đáp ứng khá hơn. Các địa phương xây tượng đài liệt sĩ, quy tập mộ liệt sĩ, xây nhà tình nghĩa, thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, khen thưởng các đối tượng chính sách. Một số đảng bộ tiến hành biên soạn, xuất bản lịch sử Đảng bộ địa phương nhằm giáo dục truyền thống cách mạng cho các tầng lớp nhân dân.

Hoạt động văn hoá-thông tin, báo chí phát thanh-truyền hình đổi mới bước đầu về nội dung, hình thức; lượng thông tin phong phú, bám sát mục tiêu dân sinh, dân chủ, kinh tế, xã hội. Đời sống tinh thần của nhân dân ở thành phố, thị trấn và các vùng dân cư tập trung được cải thiện.

Công tác quốc phòng-an ninh, quán triệt Nghị quyết 02, 07 của Bộ chính trị về quốc phòng, an ninh, Chỉ thị 135 và Quyết định 240 của Hội đồng bộ trưởng, Ban thường vụ Tỉnh uỷ (Khoá IV), đã ra các Nghị quyết 13-NQ/TU ngày 8-6-1988; Nghị quyết 14-NQ/TU ngày 9-6-1988; Nghị quyết 24-NQ/TU ngày 30-8-1990 để chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và công tác quân sự địa phương. Đảng bộ chú trọng chỉ đạo công tác huấn luyện quân sự, giáo dục ý thức nâng cao cảnh giác cách mạng, quyết tâm đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, giáo dục nhiệm vụ bảo vệ an ninh, quốc phòng toàn dân. Trong chỉ đạo, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chuyên chính vô sản; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; xây dựng lực lượng bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, dự bị động viên thực sự đảm bảo sẵn sàng chiến đấu. Công tác tuyển quân hàng năm đạt chỉ tiêu. Cơ quan quân sự và công an các cấp được xây dựng đảm bảo vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao sức cơ động và sẵn sàng chiến đấu. Ban chỉ huy quân sự xã, phường, cơ sở được kiện toàn. Đảng bộ tập trung xây dựng tỉnh thành khu vực phòng thủ, các huyện, thành phố Đà Lạt thành khu vực phòng thủ cấp huyện; xây dựng cơ quan, xí nghiệp, xã thôn chiến đấu, cụm chiến đấu, khu vực phòng thủ then chốt; xây dựng huyện thành pháo đài quân sự và kinh tế. Đồng thời, thực hiện đầy đủ chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ hoàn thành nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia trở về. Thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW ngày 23-3-1988 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, tỉnh thực hiện chính sách về giải quyết nhà ở cho sỹ quan quân đội, việc làm và đào tạo cho chiến sĩ, hạ sĩ quan sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự thường trực.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TU của Tỉnh uỷ (Khoá IV), Đảng bộ chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức đảng, chính quyền, các tầng lớp nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Cuối năm 1987, đã giải quyết cơ bản lực lượng vũ trang FULRO và kết quả đó được tiếp tục giữ vững . Đảng bộ tiếp tục chỉ đạo biện pháp xây dựng đồng bộ vùng đồng bào dân tộc, thực hiện định canh, định cư, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở.

Công tác chống địch phá hoại về kinh tế, xử lý nhiều vụ xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống buôn lậu, trốn thuế, chống tội phạm hình sự, giải quyết khiếu nại tố cáo liên quan đến quyền lợi nhân dân… đạt kết quả, tạo được sự đồng tình, tin tưởng của nhân dân.

Từ năm 1979 đến năm 1989, lực lượng vũ trang của tỉnh Lâm Đồng đã làm tốt nghĩa vụ quốc tế với Campuchia, giúp hai tỉnh Xiêm Riệp và Prétvihia, góp phần xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng của bạn.

Công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể quần chúng, bài học “lấy dân làm gốc” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” mà Đại hội VI tổng kết được Đảng bộ thực hiện, bước đầu khơi dậy không khí dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội.

Với cơ chế chính sách mới, các thành phần kinh tế được hoạt động kinh doanh theo pháp luật, quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các cơ sở được tôn trọng, bước đầu giải phóng năng lực sản xuất ở địa phương.

Hiện tượng dân chủ hình thức trong sinh hoạt Đảng và hoạt động của đoàn thể, chính quyền đã giảm bớt. Các tổ chức đoàn thể nhân dân mạnh dạn tham gia phê bình, góp ý cho Đảng và chính quyền các cấp. Cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp, các cơ quan thông tin đại chúng tổ chức nhiều hình thức tiếp dân, tiếp xúc cử tri, đối thoại, hội thảo, sinh hoạt câu lạc bộ, các diễn đàn trên báo chí, nghiên cứu thăm dò dư luận xã hội, điều tra xã hội học. Cán bộ lãnh đạo các cấp quan tâm đi xuống cơ sở tiếp xúc với nhân dân. Tiếng nói, nguyện vọng của nhân dân bước đầu được xem xét, giải quyết. Những hoạt động đó tạo động lực mới về tinh thần trong xã hội.

Tổ chức bộ máy và hoạt động của cơ quan Nhà nước các cấp có một số tiến bộ. Đến năm 1991 toàn tỉnh có 9 huyện (tăng 2 huyện so với 1986) và 1 thành phố với 118 xã, phường, thị trấn có đủ bộ máy hành chính. Cuộc bầu cử Quốc hội khoá VIII (19-4-1987), đơn vị tỉnh Lâm Đồng bầu cử Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp huyện, thị, phường, xã khoá 6 (1989-1994) thành công. Sau bầu cử các kỳ sinh hoạt của Hội đồng nhân dân chặt chẽ, dân chủ hơn; quyền hạn, trách nhiệm của đại biểu Hội đồng nhân dân được nâng cao. Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, thực hiện ba chương trình kinh tế, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội đạt kết quả tốt hơn. Hoạt động của cơ quan thường trực Hội đồng nhân dân đi vào nề nếp, chế độ tiếp xúc cử tri, tiếp dân định kỳ, giải quyết đơn thư khiếu tố của công dân của các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân tỉnh được duy trì, có chất lượng. Bộ máy quản lý Nhà nước được sắp xếp thu gọn và từng bước thực hiện quản lý bằng pháp luật; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý được chú trọng.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác quần chúng, bước đầu cải tiến nội dung, hình thức và phương thức hoạt động, hướng về cơ sở, chú trọng tổ chức, tập hợp đoàn kết đoàn viên, hội viên và quần chúng, quan tâm giải quyết những lợi ích thiết thực về việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội. Đã khơi dậy một số phong trào quần chúng trong lao động sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở, bảo vệ trật tự an ninh, xây dựng Đảng và chính quyền các cấp. Bộ máy mặt trận và đoàn thể các cấp được sắp xếp lại một bước. Thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW của Bộ chính trị (Khoá V), Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 4 (khoá IV) đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 15-6-1987, kiểm điểm công tác vận động thanh niên trong thời gian qua và đề ra nhiệm vụ tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động thanh niên. Thông qua khẩu hiệu hành động “lao động, học tập, rèn luyện để xây dựng quê hương Lâm Đồng giàu mạnh” và phong trào hành động cách mạng để đào tạo, bồi dưỡng thanh niên về lý tưởng sống và đạo đức cách mạng. Hoạt động của Đoàn thanh niên đã đổi mới theo hướng: sâu sắc, sinh động, thiết thực, dân chủ hoá và hiệu quả. Các cấp uỷ Đảng đã tăng cường chăm lo giáo dục thế hệ trẻ và lãnh đạo công tác thanh niên.

Công cuộc đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng đã đặt ra nhiều vấn đề mới đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng bộ trên các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Công tác tư tưởng của Đảng bộ tập trung vào việc đổi mới tư duy, định hướng tư tưởng, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên, tạo sự nhất trí đối với đường lối, quan điểm của Đảng. Đảng bộ tập trung vào việc học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IV. Với mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, tháng 8-1989, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VI) đánh giá những sai lầm, lệch lạc trong cải tổ, cải cách ở một số nước xã hội chủ nghĩa và sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc; phê phán, uốn nắn những quan điểm, nhận thức sai lệch, dao động về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; khẳng định những luận điểm quan trọng, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; xác định mối quan hệ đúng đắn giữa đổi mới kinh tế và cải cách hệ thống chính trị.

Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (3-1990) ban hành hai Nghị quyết về “tình hình quốc tế và nhiệm vụ của chúng ta” và “đổi mới, tăng cường công tác vận động quần chúng”. Tháng 6-1990, Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ 15 ra Nghị quyết số 21 ngày 6-6-1990 về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 8-NQ/TW, nhấn mạnh phải thường xuyên tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường mà Bác Hồ, Đảng ta đã lựa chọn, thống nhất ý chí và hành động trong công cuộc đổi mới, bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Công tác tư tưởng đã chú trọng tuyên truyền, giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân giữ vững niềm tin vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa, quán triệt những nguyên tắc cơ bản về đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát huy tinh thần chủ động, tích cực góp phần tháo gỡ những khó khăn về kinh tế-xã hội của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Đặc biệt, đợt sinh hoạt góp ý các dự thảo Văn kiện Đại hội VII của Đảng đã củng cố và nâng cao thêm nhận thức của Đảng bộ về đường lối, quan điểm của Đảng, tăng cường đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân. Cùng với việc khắc phục những nhận thức tư tưởng lệch lạc trong một số cán bộ, đảng viên, cấp uỷ đã tăng thêm phương tiện và nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan thông tin đại chúng, xây dựng lực lượng báo cáo viên, hình thành trung tâm giáo dục chính trị, tăng thêm hoạt động của Trường Đảng và công tác thông tin trong nội bộ nhân dân.

Các hoạt động kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1990), 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1990), 45 năm Ngày Quốc khánh (2-9-1990) diễn ra sôi nổi. Thông qua triển khai học tập các nghị quyết của Đảng và những định hướng tư tưởng lớn tới cán bộ, đảng viên và nhân dân, công tác tư tưởng đã góp phần nâng cao nhận thức chính trị, tạo sự nhất trí giữa tư tưởng và hành động, góp phần ổn định tư tưởng và ổn định chính trị. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân tin tưởng sự lãnh đạo và nhất trí với đường lối đổi mới của Đảng, chống lại những nhận thức sai trái và những biểu hiện cơ hội, hữu khuynh; ít có biểu hiện dao động trước các biến động phức tạp của tình hình thế giới và trong nước; khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đội ngũ đảng viên được củng cố và phát triển.

Đảng bộ tiến hành nhiều đợt củng cố và xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, gắn với Đại hội Đảng bộ cấp huyện, thị, xã, phường nhiệm kỳ 1988-1990. công tác kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng được tổ chức rộng và nhiều hơn, tạo được sự tự giác, tự kiểm tra của cơ sở Đảng và đảng viên. Qua kiểm tra có hơn 30% đảng viên phấn đấu tốt, gần 50% giữ gìn được phẩm chất nhưng năng lực, tính tiền phong bị hạn chế.

Đối với công tác tổ chức bộ máy cán bộ, tỉnh sắp xếp, thu gọn bộ máy ở những khâu trùng lắp, chồng chéo, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cải tiến lề lối làm việc. Thực hiện Nghị quyết 34-NQ/TW của Bộ Chính trị (Khoá 5), nội dung Thông báo số 46 của Ban Bí thư, bộ máy Đảng và Nhà nước của tỉnh được tinh giản từ 75 đầu mối xuống còn 55 đầu mối, ở cấp huyện từ 24, 25 xuống còn 10, 11 phòng, ban. Đã hình thành bộ máy và bố trí cán bộ cho 2 huyện và một số xã mới; sắp xếp lại một số đơn vị sản xuất kinh doanh. Qua đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp lại, đội ngũ cán bộ hợp lý hơn về cơ cấu và nâng cao một bước về chất lượng; một số cán bộ trẻ phát triển tốt hơn. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý Nhà nước, lãnh đạo các doanh nghiệp đã bước đầu đổi mới tư duy và có sự trưởng thành.

Hầu hết các cấp uỷ Đảng, nhất là từ cấp trên trực tiếp cơ sở bước đầu xây dựng phong cách làm việc có chương trình, kế hoạch và lựa chọn các vấn đề để ra quyết định chỉ đạo. Mối quan hệ giữa các cấp uỷ Đảng với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các đoàn thể, Mặt trấn Tổ quốc các cấp bước đầu được đổi mới; Đảng giảm bớt bao biện công việc của Nhà nước và tạo điều kiện để các đoàn thể, Mặt trận chủ động hoạt động..

Nhìn tổng quát, sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới theo Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, Đảng bộ đã đạt được những thắng lợi bước đầu có ý nghĩa quan trọng. Năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế được giải phóng một bước, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân tăng. Sản xuất nông nghiệp phát triển cơ bản đúng hướng, đảm bảo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tăng nguồn nông sản hàng hoá. Xây dựng được một số cơ sở vật chất, kỹ thuật mới, giải quyết thêm việc làm cho người lao động. Xoá bỏ một bước quan trọng cơ chế quản lý cũ, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân được ổn định và có cải thiện. Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy. Tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể, các tổ chức xã hội được củng cố và đổi mới. Tình hình chính trị ổn định, an ninh trật tự tuy còn phức tạp nhưng vẫn được giữ vững.

Những thành tựu trên bắt nguồn từ những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đáp ứng lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh khắc phục khó khăn, nỗ lực thực hiện có hiệu quả công cuộc đổi mới. Sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ đã tập trung vào những vấn đề lớn, trọng tâm, nắm bắt được yêu cầu của cuộc sống đặt ra và vận dụng được những quan điểm của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương.

Tuy vậy, nhiều vấn đề kinh tế-xã hội cấp bách của tỉnh chưa được giải quyết. Nền kinh tế phát triển chậm và chưa ổn định, một số chỉ tiêu kế hoạch đạt thấp. Sản xuất nông nghiệp còn phát triển theo chiều rộng; lâm nghiệp còn nặng khai thác và chưa gắn với phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc. Công nghiệp phát triển chậm. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp. Nhiều tiềm năng chưa được phát huy tốt. Kết cấu hạ tầng còn thiếu, không đồng bộ và bị xuống cấp. Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh lúng túng, chưa thích ứng với cơ chế thị trường. Số lao động thiếu việc làm còn nhiều. Thu ngân sách không đủ chi. Đời sống nhân dân còn nghèo, một bộ phận còn rất khó khăn và trình độ dân trí thấp. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn phức tạp, có những yếu tố có thể gây mất ổn định. Tiêu cực, tệ tham nhũng và vi phạm dân chủ còn nhiều. Kỷ cương trong Đảng và pháp luật Nhà nước không được chấp hành nghiêm.

Những khó khăn, yếu kém bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan: điểm xuất phát của nền kinh tế thấp, cơ chế quản lý mới chưa đồng bộ, hoàn chỉnh. Sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã tác động không tốt đến nhiều mặt đối với tỉnh. Song chủ yếu do các nguyên nhân chủ quan. Nhận thức của cán bộ, đảng viên về công cuộc đổi mới chưa đầy đủ, sâu sắc; tư tưởng bảo thủ, trì trệ còn nặng; chưa tạo được sự chuyển biến rõ rệt trong đổi mới công tác xây dựng Đảng và công tác quần chúng. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ,” chưa được cụ thể hoá. Bộ máy tổ chức còn trùng lắp, kém hiệu lực. Trong lãnh đạo, điều hành có mặt chưa sát thực tế. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo, tự phê bình và phê bình chưa tốt. Công tác kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết thiếu kịp thời, thường xuyên. Hiệu lực công tác quản lý điều hành trên một số lĩnh vực chưa cao.

CHƯƠNG IV

KIÊN TRÌ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI

THEO CHIẾN LƯỢC ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ,

HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC

(1991-2000)

 

I. VƯỢT QUA KHÓ KHĂN THỬ THÁCH, KIÊN TRÌ CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI

Năm 1991, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch đứng đầu là đế quốc Mỹ tăng cường tấn công chống phá cách mạng xã hội chủ nghĩa, phong trào cách mạng thế giới lâm vào thoái trào. Bối cảnh thế giới đã tác động mạnh mẽ đến tình hình chính trị, tư tưởng, kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh của nước ta. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hoang mang dao động, thậm chí mất phương hướng. Bọn phản động và cơ hội trong nước lợi dụng để tuyên truyền chống phá cách mạng nhằm âm mưu xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới phải đương đầu với nhiều khó khăn thách thức… Trước tình hình khó khăn phức tạp, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Lâm Đồng thực hiện đường lối của Đảng tiếp tục khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng; kiên định sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo, quyết tâm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững quốc phòng-an ninh.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng diễn ra từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 đã thành công rực rỡ. Đại hội có một tầm quan trọng đối với tiến trình phát triển của đất nước: tiến hành tổng kết hơn 5 năm đổi mới, rút ra 5 bài học kinh nghiệm và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000.

Đại hội diễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn biến phức tạp: “Sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông Âu, sự chống phá nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng cộng sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xoá bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực và sự hoang mang dao động của một bộ phận những người cộng sản trên thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam”[1]

Trên cơ sở phân tích đặc điểm, tình hình thuận lợi và khó khăn, căn cứ vào mục tiêu chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được nêu trong Cương lĩnh chính trị, Báo cáo chính trị Đại hội VII của Đảng đã xác định: “Mục tiêu tổng quát của 5 năm tới là vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay”[2]

Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000, được Đại hội VII của Đảng thông qua đã xác định mục tiêu là đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội; phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI.

Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội VII khẳng định vai trò trách nhiệm của Đảng, đánh giá thực trạng tình hình Đảng và xác định phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong thời kỳ mới là tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng; coi việc tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng, là công việc thường xuyên đảm bảo cho Đảng ta luôn luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng.

Sau thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, từ ngày 20 đến 22-11-1991, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ V (vòng 2) được tiến hành tại thành phố Đà Lạt. Dự Đại hội có 324 đại biểu đại diện cho 9.982 đảng viên. Đại hội đã đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IV của Đảng bộ tỉnh, chỉ ra những việc làm được, những việc chưa làm được, những vấn đề mới nảy sinh, những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và kinh nghiệm trên các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội; đồng thời vận dụng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII để vạch ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ trong 5 năm (1991-1995). Đại hội cũng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh đến năm 2000. Đại hội bầu Ban chấp hành gồm có 41 đồng chí, Ban thường vụ có 11 đồng chí, đồng chí Nguyễn Xuân Du được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ, đồng chí Nguyễn Ánh Minh-Phó Bí thư thường trực Tỉnh uỷ, đồng chí Nguyễn Duy Anh -Phó Bí thư-Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh,

Đánh giá tổng quát những kết quả đạt được sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, Báo cáo chính trị của Tỉnh uỷ nhấn mạnh: “…Chúng ta đã thu được những thắng lợi bước đầu có ý nghĩa quan trọng: năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế được giải phóng thêm một bước, thúc đẩy nền kinh tế có chuyển biến mới. Tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân tăng khá. Sản xuất nông nghiệp phát triển cơ bản đúng hướng, có mặt phát triển nhanh, đảm bảo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tăng nguồn nông sản hàng hoá. Xây dựng được một số cơ sở vật chất, kỹ thuật mới. Giải quyết thêm việc làm cho người lao động. Đã xoá bỏ một bước quan trọng cơ chế quản lý cũ, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân được ổn định hơn và có cải thiện. Dân chủ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được thực hiện. Tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể, mặt trận và các tổ chức xã hội được chấn chỉnh và đổi mới một bước. Tình hình chính trị được ổn định, an ninh, trật tự tuy còn phức tạp những vẫn được giữ vững”.

Bên cạnh những mặt làm được rất đáng phấn khởi, Đại hội cũng thẳng thắn đánh giá những mặt hạn chế, yếu kém, đáng chú ý như: “… nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội cấp bách chưa được giải quyết… Nền kinh tế phát triển chậm và chưa ổn định, một số chỉ tiêu kế hoạch đạt thấp. Tốc độ tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân giảm dần. Sản xuất nông nghiệp còn phát triển theo chiều rộng, lâm nghiệp còn nặng khai thác và chưa gắn với phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc. Công nghiệp phát triển chậm. Nền kinh tế chưa có tích luỹ từ nội bộ. Nhiều tiềm năng chưa được khai thác, phát huy tốt, còn để lãng phí, hư hao, thất thoát lớn… Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh còn lúng túng, chưa thích ứng với cơ chế thị trường. Số lao động thiếu việc làm còn nhiều. Thu ngân sách không đủ chi… Dân còn nghèo, trình độ dân trí và đời sống nhân dân thấp, một bộ phận còn rất khó khăn. An ninh chính trị, trật tự xã hội trong tỉnh còn phức tạp, có những yếu tố có thể gây mất ổn định. Những tiêu cực, bất công xã hội, tệ tham nhũng và vi phạm dân chủ còn nhiều; đạo đức xã hội xuống cấp. Kỷ cương trong Đảng và pháp luật của Nhà nước không được chấp hành nghiêm.

Trên cơ sở đánh giá một cách nghiêm túc kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, quán triệt và vận dụng tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII phù hợp với đặc điểm tình hình của tỉnh Lâm Đồng; Đại hội lần thứ V Đảng bộ tỉnh đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ trong 5 năm 1991-1995. Nghị quyết Đại hội nêu mục tiêu tổng quát: “Tăng cường đoàn kết thống nhất toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong tỉnh, phát huy tinh thần độc lập tự chủ, ý chí tự lực tự cường, vượt qua mọi khó khăn thử thách, khai thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của địa phương đi đôi với mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài, tỉnh ngoài, từng bước ổn định và phát triển kinh tế-xã hội; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, tạo được tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế; đảm bảo ổn định chính trị, giữ vững an ninh và trật tự an toàn xã hội; phát huy hơn nữa dân chủ xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh chống tiêu cực, chống tham nhũng, khắc phục bất công xã hội; đồng thời chuẩn bị đủ điều kiện để tranh thủ mọi thời cơ phát triển nhanh nền kinh tế-xã hội của tỉnh trong những năm sau”.[3]

Đại hội xác định 5 mục tiêu cụ thể:

Phát triển mạnh sản xuất, tạo ra nhiều hàng hoá xuất khẩu có giá trị cao, bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.

Tích cực giải quyết việc làm cho người lao động. Bảo đảm cho đại bộ phận nhân dân đủ ăn, mặc, cải thiện điều kiện đi lại, học hành, chữa bệnh…, hạn chế đói giáp hạt vùng đồng bào dân tộc và vùng kinh tế mới; hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống dưới 2% vào năm 1995.

Tiếp tục sắp xếp tổ chức lại sản xuất, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, nhất là công nghiệp chế biến và kết cấu hạ tầng; củng cố kinh tế quốc doanh và tập thể. Khuyến khích phát triển kinh tế ngoài quốc doanh bằng nhiều hình thức phù hợp điều kiện cụ thể của từng sản phẩm theo luật định.

Bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Nêu cao cảnh giác đập tan mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.

Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, đổi mới tổ chức và cán bộ. Tăng cường xây dựng cơ sở, nhất là xã, phường.

Đại hội nêu rõ 4 phương châm chỉ đạo:

Tăng cường hơn nữa khối đoàn kết toàn dân, động viên được lực lượng của mọi tầng lớp nhân dân vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững đoàn kết trong Đảng, thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân.

Kết hợp động lực kinh tế với động lực tinh thần, thực hiện hài hoà lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; phát huy lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và truyền thống cách mạng kiên cường của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh, khơi dậy mạnh mẽ ý thức tự chủ, sáng tạo, cần kiệm, tạo ra các phong trào quần chúng phấn đấu vì mục tiêu xây dựng Lâm Đồng giàu mạnh.

Tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm để đẩy mạnh đổi mới các lĩnh vực khác, nhất là thực hiện dân chủ hoá xã hội; đổi mới tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị và các chính sách xã hội.

Phát huy năng lực của các thành phần kinh tế, mở rộng hợp tác, liên kết với trong và ngoài nước, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương và các bộ, các ngành, các nguồn viện trợ của các tổ chức quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài để xây dựng địa phương.

Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế giai đoạn 1991-1995 được Đại hội V xác định:

Về sản xuất, tiếp tục phát triển nông, lâm nghiệp toàn diện gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định và phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Xây dựng phương án tổng thể trên từng vùng, hình thành cơ cấu hợp lý về nông-lâm-công nghiệp chế biến, bảo vệ môi trường và tài nguyên; xây dựng các điển hình kinh tế-kỹ thuật-dịch vụ ở từng vùng; xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội ở nông thôn [4].

Nghị quyết Đại hội chỉ rõ “phát triển mạnh cây dâu tằm ở tất cả các vùng có điều kiện thích hợp”, tập trung thâm canh, tăng năng suất và sản lượng các loại cây trồng chủ lực như cà phê, chè, lúa nước và rau màu các loại, đặc biệt lưu ý phải duy trì và phát triển các loại rau, hoa, cây ăn trái và cây dược liệu; phát triển mạnh đàn gia súc, gia cầm ở khu vực gia đình và tư nhân; phát triển kinh tế rừng gắn với phát triển kinh tế-xã hội, nhất là vùng dân tộc ít người; phát triển nhanh công nghiệp chế biến nông, lâm sản, coi đây là khâu mấu chốt; củng cố và phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là giao thông nông thôn với tinh thần “nhân dân làm là chính, Nhà nước hỗ trợ một phần”; cải tiến và từng bước đổi mới thiết bị kỹ thuật để nâng cao chất lượng thông tin liên lạc trong mọi tình huống; phát triển du lịch trọng điểm là Đà Lạt. Tư tưởng chỉ đạo của Đại hội V Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng về phát triển sản xuất đã quán triệt sâu sắc tinh thần phát triển toàn diện nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá. Đây là một bước tiến mới trong nhận thức về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế, Đại hội đề ra yêu cầu: “khẩn trương sắp xếp, củng cố và nâng cao hiệu quả các đơn vị kinh tế quốc doanh quan trọng, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các đơn vị làm ăn thua lỗ kéo dài. Thực hiện giao vốn cho các đơn vị kinh tế quốc doanh”[5]. Đối với kinh tế tập thể, Đại hội xác định “củng cố và phát triển kinh tế tập thể theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi và kết hợp hài hoà sức mạnh của tập thể và của xã viên”[6]; khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển sản xuất; tiếp tục hình thành và mở rộng thị trường để thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá; quản lý chặt chẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Ngân hàng phải làm tốt chức năng là trung tâm tiền tệ tín dụng và thanh toán của các thành phần kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển có hiệu quả; phải lấy thị trường làm căn cứ để có kế hoạch phát triển sản xuất, làm tốt công tác dự báo để chủ động đối phó với những đột biến về giá cả thị trường.

Để thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển, Đại hội đặc biệt nhấn mạnh phải cải tiến công tác điều hành của Nhà nước về kinh tế, tiếp tục phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước và quản lý kinh doanh của cơ sở, ngăn chặn tình trạng lợi dụng quyền tự chủ để hoạt động tuỳ tiện, gây tổn thất tài sản xã hội chủ nghĩa.

Đại hội xác định nhiệm vụ chủ yếu của khoa học-công nghệ và giáo dục-đào tạo là đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh; trong đó coi trọng việc thực hiện các chương trình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Các đề tài khoa học nhằm góp phần giải quyết các vấn đề: tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, nâng cao chất lượng hàng hoá nông-lâm-khoáng sản, bảo vệ môi trường, đảm bảo cơ sở khoa học cho các quyết sách của tỉnh trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội-quốc phòng, an ninh. Nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo nhằm nâng cao dân trí, hình thành đội ngũ lao động theo kịp yêu cầu nền kinh tế-xã hội.

Về các chính sách xã hội, Đại hội lần thứ V Đảng bộ tỉnh xác định phải “tập trung giải quyết những vấn đề xã hội phù hợp với khả năng kinh tế, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân tố con người, là động lực phát triển kinh tế-xã hội”[7]. Vấn đề dân số và việc làm có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định và phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Tăng quy mô dân số phải gắn với đảm bảo giải quyết việc làm, ổn định đời sống của nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình chính sách, những người có hoàn cảnh đặc biệt…. Phát triển sự nghiệp văn hoá-thông tin theo hướng nâng cao chất lượng và đáp ứng yêu cầu bảo tồn, phát huy truyền thống văn hoá dân tộc, nâng cao dân trí, bồi dưỡng tình cảm cao đẹp, thoả mãn đầy đủ hơn nhu cầu hưởng thụ văn hoá-thông tin ngày càng cao của nhân dân. Đây thực sự là một nhiệm vụ quan trọng nhưng hết sức khó khăn trong điều kiện nền kinh tế của tỉnh chưa phát triển mạnh.

Về quốc phòng và an ninh, quán triệt sâu sắc quan điểm xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng thế trận an ninh nhân dân kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế của Đảng. Đại hội V của Đảng bộ tỉnh xác định rõ nhiệm vụ của doanh nghiệp bên cạnh việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân chính quy, vững mạnh cần tập trung nâng cao chất lượng quân dự bị động viên và tăng cường xây dựng lực lượng dân quân tự vệ cả về số lượng và chất lượng”[8]; quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của các ngành, địa phương phải gắn chặt với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, xây dựng cơ sở vật chất hậu cần tại chỗ vững chắc; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc, đảm bảo chiến thắng trong mọi tình huống, đấu tranh có hiệu quả âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.

Về nội dung phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước và vai trò của các đoàn thể nhân dân, Đại hội nhấn mạnh yêu cầu đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Theo đó, phải nâng cao hiệu lực điều hành của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phân công, phân cấp rõ ràng giữa tỉnh-huyện-xã, sắp xếp bộ máy tinh gọn và hoạt động có hiệu quả; nâng cao vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp; đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhằm tập hợp và động viên nhân dân tích cực tham gia phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống, đấu tranh chống lại âm mưu thâm độc của kẻ thù.

Nhiệm vụ chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được Đại hội xác định là một đòi hỏi bức thiết không chỉ đối với sự nghiệp đổi mới mà còn do bối cảnh tình hình thế giới phức tạp, Liên xô- Đông Âu sụp đổ, kẻ thù tấn công quyết liệt nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam là một trong những mục tiêu chính… Đảng bộ không chỉnh đốn và đổi mới để thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức thì nhất định không đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn mới. Công tác tư tưởng phải không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức hoạt động bảo đảm sự ổn định, thống nhất trong Đảng và trong xã hội đấu tranh có hiệu quả âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; làm tốt công tác tổng kết thực tiễn để góp phần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chủ trương, chính sách một cách phù hợp. Công tác củng cố, kiện toàn tổ chức đảng, các cấp, làm trong sạch và nâng cao chất lượng đảng viên cần “xác định rõ nhiệm vụ, nội dung và phương thức lãnh đạo của từng loại hình cơ sở đảng, duy trì và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, thực hiện nề nếp tự phê bình và phê bình trong Đảng để nâng cao chất lượng đảng viên, nhất là tính tiền phong, gương mẫu, tinh thần trách nhiệm và năng lực lãnh đạo, tập hợp và giáo dục quần chúng”[9]

Vấn đề cơ bản để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được Đại hội đặt ra với yêu cầu phải đổi mới cán bộ và công tác cán bộ, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh và đồng bộ. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ bằng nhiều hình thức để đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới; đảm bảo kế thừa và chuyển tiếp các thế hệ cán bộ một cách vững chắc.

Đại hội lần thứ V (vòng 2) của Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng tiếp tục khẳng định và tỏ rõ quyết tâm “đi theo con đường của chủ nghĩa Mác-Lênin, con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, phát huy những thành quả và kinh nghiệm đạt được, với bản lĩnh chính trị và truyền thống đoàn kết nhất trí, Đảng bộ và toàn quân, toàn dân trong tỉnh nhất định vượt qua mọi khó khăn tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới giành được những thắng lợi to lớn hơn nữa”.

Để Nghị quyết Đại hội đi vào cuộc sống, trở thành phong trào thi đua mạnh mẽ, rộng khắp, Tỉnh uỷ khoá V đã kịp thời có chủ trương chỉ đạo các cấp, ngành, đoàn thể căn cứ vào Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh để xây dựng chương trình kế hoạch 5 năm (1991-1995); đồng thời phải tiến hành sơ kết, tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh uỷ trong các khoá trước để chuẩn bị ban hành các chỉ thị, nghị quyết, các chủ trương, chính sách trong nhiệm kỳ mới. Để thực hiện chủ trương đó, ngày 20-9-1991, Tỉnh uỷ đề ra “Một số nội dung cơ bản trong phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 1991-1995 và định hướng phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh đến năm 2000”. Đánh giá tình hình phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh sau 15 năm giải phóng (1975-1990), cho thấy năng lực sản xuất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông, xây dựng, du lịch… đã được phát huy đáng kể theo hướng kinh tế hàng hoá gắn với các loại tiềm năng. Dân số tăng cơ học nhanh đã hình thành thêm một số huyện mới và địa bàn lương thực, thực phẩm mới của tỉnh.

 Tuy nhiên, sau 15 năm giải phóng kinh tế của tỉnh chủ yếu phát triển theo chiều rộng. Năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi còn thấp. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển chậm, chất lượng chế biến nông, lâm sản còn thấp. Cơ sở vật chất kỹ thuật như giao thông, thuỷ lợi, nhà cửa, phúc lợi xã hội vốn nghèo nàn lại bị xuống cấp. Dân số tăng cơ học nhanh, đời sống của phần lớn đồng bào dân tộc ít người và kinh tế mới chưa ổn định; trình độ dân trí thấp còn 15% mù chữ. Dịch bệnh còn xảy ra nhiều nơi, nhất là sốt rét, trẻ em suy dinh dưỡng còn cao…

Trên cơ sở đánh giá thực trạng kinh tế-xã hội sau 15 giải phóng, Tỉnh uỷ đề ra một số mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh đến năm 1995 và định hướng đến năm 2000 là: Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và khai khoáng gắn với công nghiệp chế biến, đồng thời phát triển du lịch dịch vụ. Mục tiêu này thể hiện sự đổi mới trong nhận thức về phát triển kinh tế-xã hội theo hướng khai thác tiềm năng, thế mạnh của tỉnh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được mục tiêu định hướng, Tỉnh uỷ đã đề ra một số chỉ tiêu phấn đấu chủ yếu là: mức tăng tổng sản phẩm xã hội giai đoạn 1991-1995 bình quân hàng năm là 8,75%, giai đoạn 1995-2000 là 11,88%, thu nhập quốc dân giai đoạn 1991-1995 bình quân mỗi năm là 8,4% và giai đoạn 1995-2000 là 11,05%; thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 1990 là 244 ngàn đồng, năm 1995 là 330 ngàn đồng và năm 2000 là 494 ngàn đồng; thu ngân sách Nhà nước năm 1995 là 48,5 tỷ đồng, năm 2000: 93,8 tỷ đồng (theo giá cố định 1990). Tỉnh uỷ xác định nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong sản xuất kinh doanh là phải huy động mọi nguồn vốn (ngân sách, liên kết, liên doanh, dân đóng góp, vốn tự có của các đơn vị…) để tập trung trồng mới, thâm canh cây dâu tằm, chè, trồng rừng, phát triển cây cà phê, thuốc lá; đổi mới công nghệ và xây dựng thêm một số xí nghiệp chế biến gỗ công nghệ tiên tiến, nhà máy sơ chế, đánh bóng cà phê nhân, cà phê hoà tan; sửa chữa, nâng cao một số công trình phục vụ du lịch quốc tế (khách sạn Palace, Đà Lạt, Dinh 1, một số biệt thự, sân gôn, khôi phục sân bay Cam Ly, nâng cấp sân bay Liên Khương); tổ chức khai thác gắn với chế biến khoáng sản thiếc, vàng, cao lanh, đá quý, đá ốp lát xuất khẩu…

Về xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ kinh tế-xã hội, Tỉnh uỷ chủ trương tập trung nguồn vốn khẩn trương xây dựng hệ thống điện cho các huyện phía Nam của tỉnh, nâng cấp hệ thống điện ở Đà Lạt; khôi phục đường quốc lộ 27 nối với Đắk Lắk, đường 28 nối Di Linh với Phan Thiết, khôi phục đường nội thị Đà Lạt, một số đường nội huyện, phát triển giao thông nông thôn; xây dựng hệ thống thuỷ lợi và một số hồ đập để phục vụ tưới cây lương thực, cây công nghiệp và mở diện tích gieo trồng; nâng cấp mạng lưới thông tin liên lạc, xây dựng hệ thống thông tin nội tỉnh, cáp quang thành phố Hồ Chí Minh-Đà Lạt, phát triển mạng lưới điện thoại xuống các xã.

Những nội dung cơ bản trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 1991-1995 và định hướng đến năm 2000 thể hiện rõ quan điểm của tỉnh về tiếp tục đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó chú ý khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương.

Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V và những nội dung cơ bản trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh trong 5 năm 1991-1995 và định hướng đến năm 2000, Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể, địa phương chủ động tích cực triển khai Nghị quyết của tỉnh đối với ngành, lĩnh vực, địa phương mình, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong toàn tỉnh, quyết tâm biến những quan điểm, tư tưởng nêu trong các nghị quyết sớm trở thành hiện thực.

Sự quyết tâm của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc trong tỉnh được thể hiện ngay trong năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ V. Tình hình kinh tế-xã hội vẫn giữ được sự ổn định và có bước phát triển so với năm 1991. Một số lĩnh vực có chuyển biến và tiến bộ rõ rệt. Nhiều chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế-xã hội tăng khá so với 1991. Sản lượng lương thực quy thóc tăng gần 7.300 tấn so với 1991; đàn lợn tăng hơn 30 nghìn con; cây công nghiệp (chè, cà phê, dâu tằm) 39.664 ha, tăng 2933 ha, sản lượng 62.900 tấn (chè 47.400 tấn, cà phê 11.000 tấn, tơ kén 4.500 tấn), tăng 9819 tấn. Thu ngân sách Nhà nước đạt 66.830 triệu đồng, tăng 23.343 triệu. Giáo dục-đào tạo có nhiều đổi mới, mạng lưới trường lớp được sắp xếp hợp lý, bước đầu tiến hành đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Các chương trình quốc gia về y tế được tập trung chỉ đạo triển khai khá đồng bộ, đảm bảo yêu cầu đề ra, nhiều chương trình đạt khá như tiêm chủng, chống sốt rét, bướu cổ, kế hoạch hoá gia đình… Các hoạt động văn hoá-thông tin được duy trì, một số loại hình văn hoá-nghệ thuật truyền thống được củng cố và phát huy. Việc thực hiện chính sách xã hội có cố gắng hơn trước, phong trào xây dựng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm được đẩy mạnh. Triển khai thực hiện Nghị quyết 120/HĐBT về lập các dự án vay vốn giải quyết việc làm cho 1.429 lao động. Tình hình quốc phòng an ninh tuy có nhiều diễn biến phức tạp do các đối tượng phản động tăng cường hoạt động nhưng nhờ đề cao cảnh giác, chủ động nắm bắt và xử lý các tình huống kịp thời nên đã giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nhìn chung, tình hình kinh tế-xã hội năm 1992 có nhiều mặt chuyển biến, tiến bộ hơn năm 1991.

 Công tác tổ chức lại sản xuất và kinh doanh ở hai khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh cơ bản hoàn thành (58 doanh nghiệp Nhà nước, 66 công ty và doanh nghiệp tư nhân). Công tác hợp tác đầu tư nước ngoài đã triển khai được 3 dự án và nhiều dự án được đăng ký. Các ngành trên lĩnh vực xã hội giữ được sự ổn định và thu được nhiều kết quả. Công tác quản lý Nhà nước ở các cấp, các ngành đang từng bước thay đổi theo yêu cầu đổi mới.

 Tuy nhiên, thẳng thắn đánh giá thực trạng kinh tế-xã hội của tỉnh còn nhiều khó khăn, yếu kém, trong đó đáng chú ý là các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh kém hiệu quả; công nghiệp chế biến còn hạn chế; nạn khai thác rừng bừa bãi đang làm huỷ hoại môi trường sinh thái; thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn; thu chi ngân sách đang là vấn đề gay gắt; việc giải quyết các vấn đề xã hội còn rất nặng nề; đời sống nhân dân nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng di cư tự do gặp nhiều khó khăn; cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội (giao thông, thuỷ lợi, điện, nước, trường học, trạm y tế, nhà văn hoá) thiếu thốn và xuống cấp; trật tự kỷ cương trong quản lý kinh tế lỏng lẻo. Đó là những vấn đề lớn đang đặt ra gay gắt đòi hỏi tỉnh phải có những chủ trương, quyết sách lớn.

Từ thực tế trong năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội, trong suốt nhiệm kỳ V, Tỉnh uỷ đã mạnh dạn đề ra những chủ trương, chính sách lớn nhằm cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực đời sống xã hội, góp phần tháo gỡ khó khăn, mở ra hướng phát triển mới. Để tiếp tục duy trì tốc độ phát triển kinh tế-xã hội sau một năm thực hiện Nghị quyết Đại hội V Đảng bộ tỉnh, Tỉnh uỷ đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trên các lĩnh vực, trong đó tập trung khai thác những thế mạnh của tỉnh. Nhiều chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch, chương trình tiếp tục được ban hành đã mang lại kết quả thiết thực. Nhờ vậy mà tốc độ phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh năm sau cao hơn năm trước. Kết quả đó đã được Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá V Đảng bộ tỉnh khẳng định.

Từ ngày 20 đến 25-01-1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (Khoá VII) họp tại Hà Nội kiểm điểm sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng và tổng kết một bước thực tiễn đổi mới từ Đại hội VI của Đảng. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng đã khẳng định những thành tựu của công cuộc đổi mới, chỉ rõ những mặt yếu kém, vạch rõ bốn nguy cơ trước mắt, nêu rõ những cơ hội và thuận lợi cơ bản của đất nước, trên cơ sở đó đề ra những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để đảm bảo hoàn thành thắng lợi mục tiêu của Đại hội VII đã đề ra. Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng đặc biệt nhấn mạnh 4 nguy cơ: Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; diễn biến hoà bình của các thế lực. Đồng thời, Hội nghị cũng đặt trọng tâm là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo cơ sở thuận lợi chuyển sang thời kỳ mới của cách mạng.

Từ ngày 29 đến ngày 31-3-1994, Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá V Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng được tổ chức tại thành phố Đà Lạt. Dự hội nghị có 202 đại biểu. Hội nghị tập trung thảo luận đánh giá tình hình 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V (1991-1993) và đề ra nhiệm vụ, giải pháp trong hai năm 1994-1995 theo tinh thần Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã vạch ra.

Hội nghị đánh giá kết quả lớn sau 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V. Tổng giá trị sản xuất (GO) tăng bình quân hàng năm 15,25%, giá trị tăng thêm (GDP) 11,20%, thu nhập bình quân đầu người tăng khá so với năm 1990. Tổng diện tích cây công nghiệp dài ngày 47.000ha, tăng trên 11.000 ha so với 1990. Sản xuất lương thực duy trì mức 130.000tấn/năm; sản xuất rau, hoa, cây ăn trái tiếp tục phát triển. Chăn nuôi tuy có khó khăn nhưng vẫn tăng trưởng nhanh. Tỉnh thực hiện chủ trương hạn chế khai thác, tăng cường quản lý, bảo vệ, phòng chống cháy rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc; ba năm toàn tỉnh đã trồng được 5.300 ha rừng tập trung, bước đầu giảm bớt tình trạng phá rừng làm rẫy. Công nghiệp chế biến chè, tơ tằm đạt khá về quy mô và chất lượng; khai thác, chế biến khoáng sản có nhiều cố gắng góp phần tăng nguồn hàng xuất khẩu, giải quyết việc làm cho người lao động.

 Hoạt động du lịch-dịch vụ bước đầu có tiến bộ trong liên doanh, liên kết gọi vốn đầu tư trong và ngoài nước để cải tạo, nâng cao và mở rộng các cơ sở kinh doanh, tăng nhanh nguồn khách. Hoạt động kinh tế đối ngoại được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng xấp xỉ 33%, toàn tỉnh đã có 10 dự án hợp tác đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng vốn 60 triệu USD, đến cuối năm 1993 đã đầu tư 32 triệu USD. Thu ngân sách tăng bình quân hàng năm 45%.

Lực lượng sản xuất trong các thành phần kinh tế tiếp tục được giải phóng và có bước phát triển, trong đó kinh tế tư nhân, cá thể, nhất là kinh tế hộ gia đình phát triển với tốc độ nhanh, sản xuất có hiệu quả, thu hút nhiều lao động. Về lĩnh vực xã hội, tỉnh tập trung giải quyết tương đối có hiệu quả về ổn định định canh, định cư vùng đồng bào dân tộc thiểu số, di dân tự do; thực hiện đầy đủ chính sách về miền núi và dân tộc theo tinh thần Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (Khoá VI), Nghị quyết 15 của Tỉnh uỷ (Khoá IV). Việc thực hiện chính sách tôn giáo theo Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị và Nghị định 69 của Chính phủ có nhiều chuyển biến, thực sự tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân.

 Công tác xoá đói giảm nghèo đã triển khai nhiều dự án (78 dự án) để giải quyết việc làm cho 53.000 lao động, góp phần ổn định đời sống cho một bộ phận dân cư nhất là đồng bào dân tộc thiểu số. Sự nghiệp giáo dục-đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, dân số-kế hoạch hoá gia đình, văn hoá-nghệ thuật, thông tin đại chúng… đều có chuyển biến tiến bộ, triển khai có hiệu quả các chương trình, mục tiêu quốc gia, góp phần ổn định chính trị-xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển, hạn chế các tiêu cực, tệ nạn xã hội…

 Về quốc phòng-an ninh, tỉnh đã triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 3 về “nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, chống “diễn biến hoà bình” của địch; trong đó tập trung nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, xây dựng thực lực cách mạng ở cơ sở và nâng cao chất lượng mọi mặt của lực lượng vũ trang.

Thực hiện Chỉ thị 15 của Bộ Chính trị, Quyết định 114 của Thủ tướng Chính phủ, cuối năm 1992, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Nghị quyết về tiếp tục ngăn chặn và bài trừ tệ nạn tham nhũng, buôn lậu. Những kết quả đạt được góp phần ổn định tình hình trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp. Về hệ thống chính trị và công tác xây dựng Đảng đã không ngừng đổi mới để phục vụ thiết thực việc đổi mới nền kinh tế. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác lập và phát huy, sự quản lý Nhà nước bằng pháp luật được tăng cường. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ được thay đổi theo yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Đảng, đoàn thể đạt được những kết quả nhất định; làm cho vai trò, hiệu quả lãnh đạo của tổ chức Đảng các cấp được nâng lên. Công tác vận động quần chúng ngày càng đi vào thực chất, mang tính thiết thực.

Đánh giá tổng quát sau hơn 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V:

Một là, từng bước phát huy được tiềm năng về đất đai, khí hậu, tiếp tục giải phóng lực lượng sản xuất của các thành phần kinh tế theo 5 chương trình kinh tế lớn do Đại hội V Đảng bộ tỉnh đề ra. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trong công nghiệp-dịch vụ từ 43,05%/năm 1990 lên 49,53% năm 1993; góp phần tạo tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.

Hai là, lãnh đạo có kết quả bước đầu về việc liên doanh, liên kết, gọi vốn đầu tư xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội.

Ba là, các vấn đề xã hội có những chuyển biến tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân ổn định và có bước cải thiện hơn trước.

Bốn là, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng được củng cố và đổi mới. Nội dung, phương thức tập hợp, vận động quần chúng có nhiều thay đổi. Niềm tin của đại bộ phận nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo ngày càng được củng cố.

Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình chung của tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế và chưa vững chắc. Tốc độ phát triển kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh kinh tế của tỉnh. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào di dân tự do còn nhiều khó khăn. Ngân sách Nhà nước thu chưa đủ chi và chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Dân chủ xã hội chủ nghĩa còn bị vi phạm ở nhiều nơi, nhất là ở cơ sở. An ninh, quốc phòng còn tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định nhưng chưa được giải quyết cơ bản, thực lực cách mạng ở cơ sở còn yếu. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, vận động quần chúng của đoàn thể còn chậm, thiếu sự năng động.

Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do công tác tổ chức thực hiện và quản lý, điều hành của các cấp, các ngành thiếu tập trung, thống nhất và đồng bộ, nhất là trong quản lý đất đai, tài nguyên và ngân sách. Trách nhiệm đó trước hết thuộc về vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của chính quyền các cấp.

Trên cơ sở đánh giá những kết quả và những hạn chế, yếu kém qua 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ V, Hội nghị giữa nhiệm kỳ đề ra phương hướng hai năm còn lại (1994-1995). Phát huy tốt nhất mọi tiềm năng, thế mạnh, mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế trong tỉnh, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài, nhất là của nước ngoài để thực hiện có kết quả 5 chương trình kinh tế lớn do Đại hội V đề ra, nhằm từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp và du lịch-dịch vụ, từng bước hiện đại hoá đổi mới quy trình công nghệ chế biến nông-lâm sản, khoáng sản, phấn đấu có bước nhảy vọt về mức tăng tích luỹ vào ngân sách trong những năm 1996-2000. Đồng thời thực hiện tốt các Nghị quyết Trung ương 3, 4, 5 và các chương trình hành động của Tỉnh uỷ, giải quyết tốt các vấn đề tổ chức cán bộ, về văn hoá, xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng trong tình hình mới.

Những nhiệm vụ chủ yếu trong hai năm được xác định:

Mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả đầu tư: tổng vốn đầu tư toàn xã hội (GO) là 23-25%; tăng thu ngân sách hàng năm từ 30% trở lên; quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư (vốn Nhà nước, vốn viện trợ, vốn liên doanh, liên kết…).

Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ từ 49% giá trị sản xuất (GO) năm 1993 lên 55% năm 1994 và 60% năm 1995. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông-lâm sản và khoáng sản. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, chú trọng phát triển thị trường nông thôn, phấn đấu giá trị kim ngạch xuất khẩu từ 24 triệu USD 1993 lên 34 triệu USD năm 1994 và 45 triệu USD năm 1995. Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng, công tác quản lý đô thị, phát triển kinh tế nông nghiệp toàn diện theo tinh thần Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 7 (Khoá V).

Tiếp tục sắp xếp tổ chức kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh, phát huy các tiềm lực về vốn, lao động của các thành phần kinh tế, đổi mới kinh tế hợp tác xã.

Chăm lo các vấn đề xã hội, phát triển văn hoá, thông tin, thể thao, khoa học-công nghệ. Tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện có kết quả chủ trương xoá đói giảm nghèo gắn với ổn định định canh, định cư vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đảm bảo giải quyết việc làm cho người lao động thông qua khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư mở rộng sản xuất. Phấn đấu đến 1995, đại bộ phận nhân dân đủ ăn, mặc, cải thiện điều kiện đi lại, học hành, chữa bệnh và tiến tới chấm dứt tình trạng đói giáp hạt ở vùng đồng bào dân tộc, vùng kinh tế mới vào năm 2000. Có biện pháp đồng bộ để đến năm 1995-1996 cơ bản hoàn thành công tác xoá nạn mù chữ, phổ cập tiểu học ở vùng kinh tế-xã hội ổn định và phát triển. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về văn hoá thông tin, đẩy mạnh phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục-thể thao quần chúng. Sớm hoàn thành quy hoạch mạng lưới phát thanh truyền hình trong toàn tỉnh, đồng thời đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật để mở rộng diện phủ sóng. Phòng chống có hiệu quả và từng bước giải quyết cơ bản các bệnh sốt rét, bướu cổ, suy dinh dưỡng, lao, phong hoa liễu…, thực hiện tốt mục tiêu giảm tốc độ tăng dân số tự nhiên hàng năm xuống 0,7%. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học trong đó chú trọng tuyển chọn giống lúa, ngô, đậu, chè, cà phê, dâu tằm, lợn, bò, gia cầm để thay dần giống cây-con năng suất và giá trị thấp, nghiên cứu cải tiến trang thiết bị dây chuyền công nghệ hiện có, đồng thời lập các dự án đầu tư và chuyển giao công nghệ tiên tiến trong các ngành sản xuất.

Về công tác quốc phòng và an ninh, tập trung giáo dục trong toàn Đảng bộ và nhân dân về âm mưu “diễn biến hoà bình” của địch, nâng cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh làm thất bại các hoạt động chống phá của địch. Tăng cường khả năng phòng thủ, đảm bảo đủ sức đối phó với mọi tình huống xấu có thể xảy ra; thường xuyên kiểm tra, bổ sung phương án A2, nâng cao chất lượng diễn tập, sẵn sang chiến đấu của lực lượng vũ trang. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân sâu rộng, trang bị phương tiện kỹ thuật; xây dựng chiến lược quốc phòng-an ninh gắn với nhiệm vụ bảo vệ và phát triển kinh tế-xã hội; đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu…

Củng cố hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân Tăng cường hiệu lực quản lý điều hành của chính quyền các cấp bằng pháp luật, đồng thời đảm bảo sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng và sự phối hợp của mặt trận và các đoàn thể; đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân theo hướng đa dạng hoá nội dung, hình thức vận động, tập hợp quần chúng.

Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 3 về “đổi mới, chỉnh đốn Đảng”; trong đó, đặc biệt chú trọng công tác đào tạo, tạo nguồn và quy hoạch cán bộ ở tất cả các cấp, các ngành nhằm chuẩn bị nhân sự cho Đại hội lần thứ VI của Đảng bộ tỉnh và bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh, huyện nhiệm kỳ 1995-1999; củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao tác dụng lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên; chú trọng củng cố các ban tham mưu của Tỉnh uỷ và các cấp uỷ huyện, thành.

Kết quả đạt được cũng như những khó khăn, yếu kém trong gần 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội V Đảng bộ tỉnh là những bài học kinh nghiệm thực tế rất bổ ích cho những năm còn lại của nhiệm kỳ. Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, Tỉnh uỷ tiếp tục sơ kết, tổng kết những chỉ thị, nghị quyết đã ban hành; đồng thời ban hành các nghị quyết, chỉ thị mới tập trung vào những vấn đề yếu kém, khó khăn, bức xúc, những lĩnh vực tỉnh có thế mạnh nhằm tạo sự chuyển biến rõ nét và mạnh mẽ hơn, đảm bảo hoàn thành và hoàn thành vượt mức các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội V Đảng bộ tỉnh đề ra.

Trên lĩnh vực phát triển kinh tế, tỉnh tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh sản xuất theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, bắt đầu từ Đại hội VI, được “ăn sâu, bén rễ” vào cuộc sống.

 Một trong những nhiệm vụ trọng tâm được tỉnh xác định là phải đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, nơi chiếm phần lớn diện tích đất đai và dân số. Nông thôn có ổn định và phát triển mới đảm bảo cho kinh tế-xã hội của tỉnh ổn định và phát triển. Từ nhận thức đó nên sau khi Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khoá VII ban hành Nghị quyết về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 7 (Khoá V) đã ra Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 27-10-1993 về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá VII) về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội nông thôn. Nghị quyết Tỉnh uỷ khẳng định: “…Từ khi có Nghị quyết 10 Bộ Chính trị (Khoá VI) đến nay, tình hình kinh tế-xã hội nông thôn đã có nhiều khởi sắc và chuyển biến đáng kể trên các lĩnh vực. Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 16,35% và chiếm tỷ trọng từ 53-55% giá trị tổng sản phẩm toàn tỉnh; từng bước chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với xây dựng cơ sở hạ tầng và chăm lo đời sống văn hoá, xã hội nông thôn. Cây công nghiệp dài ngày chè, cà phê… tăng trưởng hàng năm 9,7%. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chế biến nông sản có bước tiến bộ mới… góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá ở nông thôn. Chính sách kinh tế nhiều thành phần đã đi vào cuộc sống, khơi dậy nhiều nguồn lực, làm cho sản xuất kinh doanh ở nông thôn phát triển năng động hơn”.

Bên cạnh thành tích đạt được rất lớn, Nghị quyết cũng chỉ rõ những hạn chế, yếu kém. Đó là: Tình hình kinh tế-xã hội nông thôn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ; cơ sở vật chất-kỹ thuật… còn nhiều mặt yếu kém, công nghệ sản xuất lạc hậu; năng suất lao động, năng suất cây trồng, vật nuôi còn thấp… Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn một số vùng chuyển biến chưa đều. Một số nơi, nhất là vùng đồng bào dân tộc, kinh tế mới chưa thoát khỏi tình trạng độc canh thuần nông… Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển chậm và chưa chuyển kịp phương thức kinh doanh theo cơ chế thị trường, chưa thật gắn với phục vụ sản xuất nông nghiệp… kinh tế hợp tác xã lúng túng trong chuyển đổi cơ chế mới, phần lớn tồn tại hình thức. Kinh tế tư nhân, cá thể phát triển mạnh, song tính tự phát còn lớn và chưa ổn định. Kinh tế quốc doanh nông-lâm nghiệp tuy đã được sắp xếp lại nhưng còn nhiều yếu kém… Thị trường tiêu thụ rau, hoa, chè, tơ kén còn khó khăn, giá cả không ổn định. Sức mua của nông dân và thị trường nông thôn phát triển không đều. Đời sống vật chất và văn hoá của nông dân ở một số nơi, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế mới và ở những nơi dân di cư tự do còn nhiều khó khăn.

Thực trạng nông nghiệp, nông thôn tỉnh Lâm Đồng là một bài toán đặt ra cho Đảng bộ và chính quyền các cấp khi xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá VII) về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội nông thôn. Xác định vị trí, tầm quan trọng của nông nghiệp, nông thôn trong tiến trình đổi mới và phát triển bền vững của tỉnh, Nghị quyết 11 của Tỉnh uỷ (Khoá V) đã đề ra mục tiêu, phương hướng và các giải pháp tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Mục tiêu chung đến năm 2000 được xác định: tiếp tục đổi mới một bước cơ bản cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, tăng khối lượng nông, lâm sản hàng hoá xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2000, nâng tỷ lệ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn phải chiếm được 50% trong tổng sản phẩm xã hội nông thôn. Phát triển nhanh, vững chắc nông, lâm nghiệp gắn với công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chế biến và dịch vụ nông thôn; từng bước xoá bỏ dần sản xuất tự cấp, tự túc ở vùng đồng bào dân tộc, kinh tế mới, xoá bỏ thế độc canh cây lúa và thuần nông ở một số vùng trồng lúa và vùng kinh tế mới trong tỉnh.

Nghị quyết Tỉnh uỷ cũng chỉ rõ mục tiêu trọng tâm trước mắt là xoá đói giảm nghèo gắn với ổn định định canh định cư tiến tới chấm dứt phá rừng làm rẫy trong vùng đồng bào dân tộc ít người.

 Về phương hướng và giải pháp, nghị quyết đề ra 9 nội dung chủ yếu:

Thứ nhất, đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát huy tiềm năng, thế mạnh về đất đai, khí hậu để phát triển nền nông nghiệp toàn diện, gắn nông nghiệp với công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, nhất là công nghiệp chế biến nông-lâm sản. Phát triển nông nghiệp toàn diện nhưng phải chủ ý đầu tư thâm canh các cây, con, thế mạnh của tỉnh như chè, cà phê, dâu tằm, điều, các loại rau, hoa; đẩy mạnh chăn nuôi heo, bò đàn, bò sữa và các loại gia cầm theo hướng sản xuất hàng hoá. Đặc biệt, phát triển nông nghiệp phải gắn với phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, áp dụng các tiến bộ khoa học-kỹ thuật để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả của các sản phẩm nông nghiệp.

Thứ hai, thực hiện có kết quả việc xoá đói, giảm nghèo gắn với ổn định định canh, định cư vùng đồng bào dân tộc và tiến tới chấm dứt phát rừng làm rẫy. Phấn đấu đến năm 2000, bảo đảm đại bộ phận nhân dân đủ ăn, mặc, cải thiện điều kiện đi lại, học hành chữa bệnh và tiến tới chấm dứt đói giáp hạt vùng đồng bào dân tộc ít người, kinh tế mới.

Thứ ba, xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở ở nông thôn, thúc đẩy sản xuất, giao lưu hàng hoá, tạo bộ mặt mới ở nông thôn và nông nghiệp. Kết cấu hạ tầng xương sống nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Lâm Đồng được xác định là thuỷ lợi, giao thông và điện; đảm bảo đủ tưới cho cây công nghiệp, cây lúa vào mùa khô, giao thông thông suốt trong 4 mùa.

Thứ tư, làm tốt công tác thông tin thị trường trong và ngoài nước; từng bước hình thành các hoạt động dịch vụ, buôn bán phục vụ sự phát triển nông thôn mới. Đây là một yếu tố không thể thiếu được trong nền sản xuất hàng hoá đảm bảo cho nông dân tiêu thụ được sản phẩm nông nghiệp, nông dân không chỉ làm ra đủ ăn mà còn có phần tích luỹ, tiến lên tự làm giàu trên mảnh đất của mình.

Thứ năm, tiếp tục phát huy tiềm lực về vốn, lao động của các thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn. Trong đó xác định yêu cầu cụ thể của từng thành phần kinh tế: kinh tế hộ gia đình, kinh tế hợp tác xã, doanh nghiệp quốc doanh nông-lâm nghiệp, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân.

Thứ sáu, khẩn trương xây dựng chương trình ứng dụng các tiến bộ khoa học-kỹ thuật phục vụ sản xuất, đời sống ở nông thôn. Nghị quyết yêu cầu phải sớm thành lập trung tâm khuyến nông của tỉnh và các huyện, các vùng kinh tế mới, vùng đồng bào dân tộc. Đây là một chủ trương đúng đắn nhằm tạo bước phát triển đột phá trong nông nghiệp, nông thôn, có như vậy mới đổi mới giống cây trồng, vật nuôi, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.

Thứ bảy, thực hiện chính sách tín dụng ở nông thôn với quan điểm chung là: dành toàn bộ nguồn thu thuế sử dụng đất ở nông thôn để đầu tư trở lại nông nghiệp và xây dựng các công trình phúc lợi ở nông thôn; tăng cường đầu tư vốn ngân sách, vốn tín dụng, vốn của các ngành, đơn vị kinh tế phát triển sản xuất, dịch vụ ở nông thôn để tạo nguồn thu; chỉ đạo xây dựng ngân sách xã, tạo điều kiện cho xã có nguồn thu đảm bảo các khoản chi tiêu cho cơ sở.

Thứ tám, thực hiện chính sách xã hội ở nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ 6 (khoá V) về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khoá VII).

Thứ chín, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở nông thôn đảm bảo vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, hiệu lực quản lý của chính quyền và hiệu quả hoạt động của mặt trận và các đoàn thể.

Sau một năm thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TU (Khoá V), tình hình kinh tế-xã hội nông thôn ở tỉnh Lâm Đồng có nhiều chuyển biến tiến bộ. Sản xuất nông-lâm nghiệp tiếp tục phát triển, hầu hết các chỉ tiêu tăng hơn năm 1993. Sản xuất lương thực tuy diện tích không tăng nhưng nhờ tăng cơ cấu giống mới, tập trung thâm canh nên sản lượng quy thóc năm 1994 đạt 144.000 tấn, tăng 8% so với năm 1993 và vượt 7% so với kế hoạch. Sản xuất rau, hoa, cây ăn trái đạt sản lượng 119.000 tấn bằng 17% kế hoạch và 55% so với năm 1993. Cây công nghiệp dài ngày phát triển mạnh do giá cà phê nhân, hạt điều tăng. Diện tích trồng mới cây công nghiệp dài ngày đạt 4.197 ha tăng 8,1% so với kế hoạch, trong đó cây chè 541 ha, cà phê 1.546 ha, cây điều 1.878 ha, cây dâu 232 ha, đưa tổng diện tích cây công nghiệp dài ngày lên 48.238 ha (chè 12.927 ha, cà phê 17.920 ha, điều 7.162 ha, dâu 10.229 ha, diện tích dâu bị chặt phá trong năm 1.700 ha). Đồng thời với tăng diện tích, sản lượng cây công nghiệp dài ngày cũng tăng lên: chè búp tươi đạt 54.923 tấn bằng 82,8% kế hoạch, tăng 13,7% so với năm 1993; cà phê nhân 13.475 tấn bằng 97,5% kế hoạch, tăng 24,1% so với năm 1993; lá dâu 68.329 tấn bằng 71,1% kế hoạch, giảm 21,6% năm 1993. Chăn nuôi phát triển khá. Tổng số đàn gia súc, gia cầm đều tăng so với năm 1993 (trâu 22.138 con tăng 2,2%, bò 44.327 con tăng 10%, heo 140.000 con tăng 1,67%, gia cầm trên 1,3 triệu con tăng 37,7%). Riêng công tác thuỷ lợi tuy có cố gắng nhưng vẫn còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất. Sản xuất lâm nghiệp chủ yếu tập trung việc giao khoán bảo vệ rừng đến từng hộ nông dân, được 111.590 ha (3.083 hộ, trong đó dân tộc 2.582 hộ). Đây là một nét mới trong đổi mới sản xuất lâm nghiệp, nhằm phát huy vai trò của người dân nhất là đồng bào dân tộc trong công tác bảo vệ và phát triển rừng. Trồng rừng tập trung 1.075 ha, trồng cây nhân dân 1,5 triệu cây.

Về công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 11,2% so với năm 1993; trong đó công nghiệp Trung ương tăng 12,2%, công nghiệp địa phương tăng 9,6%. Điều đáng lưu ý là trong khi công nghiệp quốc doanh giảm 33% so với 1993, thì công nghiệp ngoài quốc doanh lại tăng cao 23% so với 1993 và chiếm gần 64% giá trị tổng sản lượng công nghiệp địa phương. Điều này chứng tỏ chủ trương phát huy các tiềm lực về vốn, lao động của các thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn của Nghị quyết 11-NQ/TU là đúng đắn và đã phát huy trong đời sống. Các sản phẩm công nghiệp chế biến chủ yếu của tỉnh như tơ, lụa, chè, gỗ, thêu đan… đều tăng so với năm 1993.

Hệ thống điện, nước sạch ngoài các đô thị, vùng nông thôn cũng được quan tâm đầu tư phát triển. Hệ thống điện lưới quốc gia được mở rộng, toàn tỉnh có 65 xã, phường, thị trấn có điện. Hệ thống cung cấp nước sạch cho thành phố Đà Lạt, thị xã Bảo Lộc và một số huyện lỵ như Liên Nghĩa, Đinh Văn… được cải tạo nâng cấp. Lực lượng vận tải quốc doanh và ngoài quốc doanh được sắp xếp lại; vận tải tư nhân phát triển ồ ạt dẫn đến các hoạt động diễn ra phức tạp; một số tuyến đường giao thông nông thôn vùng đồng bào dân tộc, kinh tế mới được phát triển và nâng cấp thêm. Xây dựng cơ bản được đẩy mạnh, tổng số vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh năm 1994 ước đạt 359,9 tỷ đồng; trong đó đầu tư cho công nghiệp-điện 25%, nông-lâm-thuỷ 10%, dịch vụ du lịch 28%, hạ tầng kinh tế-xã hội 37%.

Hạn chế của công nghiệp, giao thông, vận tải, xây dựng là công nghiệp quốc doanh địa phương gặp khó khăn, các khoản chi xây dựng cơ bản chưa đáp ứng kịp thời; công tác chuẩn bị đầu tư quá chậm (khảo sát, thiết kế, dự toán) nên phải kéo dài thời gian, ảnh hưởng đến tiến độ đầu tư; giá thành một số công trình còn cao gây lãng phí; chất lượng một số công trình chưa đảm bảo, mới đưa vào sử dụng đã hư hỏng…

Đồng thời với đẩy mạnh sản xuất, lĩnh vực lưu thông phân phối, hợp tác đầu tư cũng được Tỉnh uỷ quan tâm lãnh đạo. Lưu thông vật tư hàng hoá trên địa bàn tỉnh khá thuận lợi, đáp ứng cơ bản nhu cầu sản xuất và tiêu dùng xã hội. Lực lượng tham gia lĩnh vực lưu thông phân phối được đa dạng hoá, thương nghiệp ngoài quốc doanh phát triển rộng khắp; trong khi đó thương nghiệp quốc doanh được cơ cấu lại, chủ yếu phục vụ một số mặt hàng chính như xăng dầu, xi măng, phân bón… và các mặt hàng chính sách do Nhà nước tài trợ cho miền núi, đồng bào dân tộc. Hoạt động dịch vụ du lịch phát triển mạnh, nhất là nhà nghỉ, khách sạn ngoài quốc doanh. Chất lượng phục vụ được nâng lên, nhiều cơ sở đủ tiêu chuẩn để đón khách quốc tế, điều mà mấy năm trước đó còn rất thiếu. Lượng khách đến Đà Lạt năm 1994 ước đạt 456.000 lượt người, trong đó khách quốc tế khoảng 50.000 người, tăng 50% so với năm 1993. Hoạt động xuất khẩu cũng tăng mạnh, kim ngạch xuất khẩu năm 1994 đạt 30 triệu USD tăng 24% so với năm 1993, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là: tơ tằm (430 tấn), lụa tơ tằm (750 ngàn mét); chè chế biến (4.000 tấn); cà phê nhân (2.700 tấn); thiếc tinh (600 tấn); gỗ tinh chế (4.500 m3). Cùng với đẩy mạnh đầu tư trong nước, Tỉnh uỷ đã có chủ trương mở rộng hợp tác đầu tư nhằm tranh thủ vốn ngoại tệ của nước ngoài để khai thác những lĩnh vực Lâm Đồng có thế mạnh. Năm 1994 có 5 dự án cấp giấy phép đầu tư, nâng tổng số các dự án đầu tư vào Lâm Đồng lên 17 dự án với tổng số vốn là 72,4 triệu USD, trong đó số vốn được đưa vào đầu tư năm 1994 trên 17 triệu USD, giải quyết việc làm cho gần 3.000 lao động thường xuyên và hàng ngàn lao động thời vụ, nộp ngân sách năm 1994 là 1,2 tỷ đồng.

Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 1994 đạt 136,59 tỷ đồng, tăng 1,9% so với kế hoạch địa phương giao và 25,5% so với năm 1993. Tổng chi ngân sách địa phương 188,4 tỷ tăng 5,5% so với kế hoạch địa phương và 40% so với năm 1993.

Ngành ngân hàng từng bước đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động, tích cực khai thác các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh; tổng thu tiền mặt cả năm ước đạt 854 tỷ, tổng dư nợ 815 tỷ. Việc cho vay khu vực ngoài quốc doanh kể cả hộ nông dân có tiến bộ hơn năm 1993.

Mặc dù có nhiều chuyển biến tiến bộ song lĩnh vực lưu thông phân phối, hợp tác đầu tư vẫn còn gặp không ít khó khăn, yếu kém đó là: quản lý Nhà nước về du lịch còn nhiều bất cập làm hạn chế hiệu quả kinh doanh và thất thu ngân sách; các dự án đầu tư vào Lâm Đồng còn ít và quy mô nhỏ, tiến độ triển khai chậm; thu ngân sách Nhà nước có tăng nhưng còn thấp mới chỉ đạt 11,3% GDP, thất thu thuế còn lớn, thu chưa đủ chi; nguồn vốn ngân hàng chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư sản xuất kinh doanh, bội chi tiền mặt còn lớn (tăng 31,4% so với năm 1993).

Qua một năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá VII) và Nghị quyết 11 Tỉnh uỷ (Khoá V) về đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh đã có nhiều chuyển biến rõ nét. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn được chuyển đổi tích cực. Các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế hộ gia đình tiếp tục phát triển. Công tác đo đạc cấp quyền sử dụng đất cho hộ nông dân được đẩy mạnh; việc giao đất, giao rừng, công tác khuyến nông, cho hộ nông dân vay vốn phát triển sản xuất… được quan tâm hơn, bộ mặt nông thôn đã có bước khởi sắc. Kết quả bước đầu chứng tỏ Nghị quyết 11-NQ/TU (Khoá V) được ban hành kịp thời, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh kinh tế-xã hội nông thôn Lâm Đồng phát triển; do đó đã sớm đi vào cuộc sống. Sau một năm thực hiện đã tạo được sự chuyển biến rõ nét trên lĩnh vực kinh tế. Điều đó chứng tỏ Nghị quyết đề ra một cách đúng đắn và phù hợp, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển.

Bên cạnh những mặt đạt được, tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 và chương trình hành động của Tỉnh uỷ (Nghị quyết 11/TU) còn nhiều thiếu sót. Đó là việc học tập, quán triệt chưa sâu; chương trình hành động của các ngành, đoàn thể, địa phương, đơn vị thiếu cụ thể, chưa phù hợp với thực tế cơ sở; một số nội dung trong chương trình hành động của Tỉnh uỷ chưa được thể chế hoá về Nhà nước.

Để khắc phục những thiếu sót, hạn chế, nhằm tiếp tục thực hiện các Nghị quyết Trung ương 5 và Nghị quyết 11 của Tỉnh uỷ, ngày 10-8-1994, Ban thường vụ Tỉnh uỷ ban hành Chỉ thị số 23-CT/TU yêu cầu các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu là:

1. Kiểm điểm việc cụ thể hoá Nghị quyết 5 của Trung ương và Nghị quyết chương trình hành động của Tỉnh uỷ ở ngành, đoàn thể, địa phương, đơn vị; đồng thời tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh uỷ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

2. Các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh cần xây dựng hoặc bổ sung chương trình hành động về nội dung, biện pháp giúp đỡ các địa phương, nhất là những vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế-xã hội; chú ý gắn kết việc thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chương trình dự án về phát triển nông thôn, miền núi của Trung ương, của tỉnh, trong đó phải coi trọng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi.

3. Tiến hành khảo sát đánh giá thực trạng các hợp tác xã nông nghiệp và các doanh nghiệp Nhà nước; từ đó có giải pháp xử lý hiệu quả, chú ý phát hiện và nhân rộng các mô hình mới.

4. Kịp thời thể chế hoá về mặt Nhà nước các chủ trương, biện pháp đã được Nghị quyết 11 của Tỉnh uỷ đề ra.

5. Tập trung chỉ đạo điểm một số huyện và mỗi huyện chọn một xã để tổng kết rút kinh nghiệm chỉ đạo trên diện rộng.

Chỉ thị 23-CT/TU ngày 10-8-1994 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ là một giải pháp quan trọng nhằm chấn chỉnh, uốn nắn kịp thời, xác định rõ trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, các ngành, đoàn thể, địa phương đối với nhiệm vụ đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội nông thôn.

Ngoài Nghị quyết 11-NQ/TU của Tỉnh uỷ về phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá V còn tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển công nghiệp thông qua các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh uỷ. Trong đó đáng chú ý là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về “chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (Khoá VII) về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới”. Đánh giá tình hình công nghiệp, công nghệ và đội ngũ công nhân của tỉnh, Nghị quyết chỉ rõ: “Công cuộc xây dựng và phát triển công nghiệp và công nghệ của tỉnh có bước phát triển, đạt được kết quả quan trọng, tiếp tục tạo cơ sở vật chất ban đầu cho xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội địa phương”. Một số sản phẩm công nghiệp ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng của dân và tăng giá trị hàng hoá xuất khẩu trên thị trường trong nước và quốc tế. Ngoài các sản phẩm truyền thống chè, cà phê, lâm sản, vật liệu xây dựng…, đã tạo thêm một số sản phẩm mới như tơ tằm, thiếc tinh, đá ốp lát, gỗ tinh chế, hàng may mặc… công nghiệp góp phần tạo nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm từ 9-10%.

Đội ngũ cán bộ khoa học-kỹ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh và công nhân kỹ thuật tăng khá… Công tác nghiên cứu, triển khai khoa học-công nghệ bước đầu có tiến bộ và có hiệu quả.

Bên cạnh kết quả đạt được, Nghị quyết cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém là: “công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và công nghệ ta phát triển còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh và đòi hỏi của nền kinh tế… Đến năm 1994, tỷ trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mới chiếm khoảng 13% giá trị GDP và 5,17% lực lượng lao động. Phần lớn thiết bị và quy trình công nghệ cũ kỹ lạc hậu, năng suất lao động và chất lượng sản phẩm thấp, chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Đầu tư kinh phí cho nghiên cứu khoa học còn thấp. Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước còn khó khăn, một số kinh doanh thua lỗ và đang có nguy cơ bị phá sản… Liên doanh, liên kết thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp còn ít, chưa có hiệu quả… Công tác quản lý Nhà nước về công nghiệp, công nghệ còn nhiều yếu kém và phân tán… Trình độ tay nghề và khả năng ứng dụng thực tiễn của đội ngũ cán bộ khoa học-kỹ thuật và công nhân còn thấp, lao động phổ thông còn chiếm tỷ lệ 80%, số công nhân bậc cao còn ít… Nguyên nhân yếu kém có khách quan, chủ quan, nhưng Nghị quyết nhấn mạnh yếu tố chủ quan là do cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp, các ngành chưa nhận thức đúng đắn và sâu sắc vấn đề phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa nên trong lãnh đạo, chỉ đạo vừa có tư tưởng giản đơn, nóng vội, thiếu chặt chẽ, vừa có tư tưởng bảo thủ, trì trệ và chưa mạnh dạn mở rộng hợp tác, liên doanh, liên kết thu hút vốn đầu tư trong nước, nước ngoài…

Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình, xác định rõ khó khăn và thuận lợi về phát triển công nghiệp, công nghệ và xây dựng đội ngũ công nhân, Nghị quyết số 18-NQ/TU, ngày 17-2-1995 của Tỉnh uỷ đề ra mục tiêu, quan điểm, chủ trương phát triển công nghiệp, khoa học-công nghệ và xây dựng đội ngũ công nhân đến năm 2000.

Mục tiêu chủ yếu là phát huy tốt nhất mọi tiềm năng, thế mạnh, mọi nguồn lực về vốn, lao động trong các thành phần kinh tế của tỉnh; đồng thời tranh thủ tối đa mọi nguồn lực tỉnh ngoài, nước ngoài để phát triển công nghiệp, công nghệ và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật. Phấn đấu tăng giá trị tổng sản lượng ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp từ 20-25%/năm, nhằm góp phần tăng 10-11% giá trị GDP hàng năm; đưa tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp từ 13% năm 1994 lên 25-30% so với GDP vào năm 2000.

Về quan điểm, Nghị quyết chỉ rõ: phát triển công nghệ phải gắn với phát huy, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, môi trường, ưu tiên đổi mới dây chuyền công nghệ, tăng công suất, chất lượng sản phẩm; phải gắn với củng cố an ninh quốc phòng, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ và cần kiệm trong sản xuất, tiêu dùng; từng bước cải thiện đời sống nhân dân; phát huy nguồn vốn, năng lực sản xuất và ngành nghề truyền thống của các thành phần kinh tế trong tỉnh, vừa tranh thủ nguồn vốn, trình độ công nghệ tiên tiến của tỉnh ngoài, nước ngoài.

Từ mục tiêu, quan điểm nêu trên, Nghị quyết đề ra các chủ trương chủ yếu sau đây:

 Phát triển mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông-lâm sản trên địa bàn; phát triển công nghiệp phục vụ việc đẩy mạnh phát triển du lịch-dịch vụ ở Đà Lạt, Bảo Lộc và ở các thị trấn; tiếp tục điều tra xác định trữ lượng tài nguyên khoáng sản; tổ chức khai thác và chế biến các loại khoáng sản; đầu tư vốn từng bước nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống.

Phát triển khoa học-công nghệ nghiên cứu, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đồng thời thông qua hợp tác, liên doanh, vay vốn nước ngoài để nhập một số công nghệ tiên tiến cho chế biến chè, lâm sản, cà phê, rau đặc sản… và các loại khoáng sản, vật liệu xây dựng; chú trọng phát triển công nghệ quy mô vừa và nhỏ có khả năng thu hồi vốn nhanh, phù hợp với trình độ lao động của địa phương, đồng thời đổi mới thiết bị, hiện đại hoá một vài công nghệ hoặc một số dây chuyền công nghệ có tính quyết định nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu; ưu tiên phát triển tin học; quan tâm xây dựng và nâng cấp mạng lưới dịch vụ công nghệ.

 Về xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, tỉnh chủ trương từng bước xây dựng giai cấp công nhân phát triển cả về số lượng, phẩm chất chính trị, trình độ học vấn và tay nghề; rèn luyện tác phong công nghiệp; tổ chức tốt việc đào tạo, đào tạo lại với nhiều hình thức đa dạng, trong đó đề cao vai trò tham gia của các doanh nghiệp, các tổ chức, tư nhân, các ngành nghề truyền thống…. Quan tâm xây dựng các tổ chức Đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân, liên doanh, liên kết…

Nhằm đảm bảo mục tiêu, quan điểm, chủ trương của tỉnh sớm hiện thực hoá, Nghị quyết đã khẳng định tiếp tục nghiên cứu xây dựng 6 chương trình kinh tế-xã hội là:

 Chương trình phát triển kinh tế du lịch gắn với đầu tư nâng cấp, bảo vệ và tái tạo cảnh quan, môi trường.

 Chương trình thăm dò và tổ chức khai thác chế biến khoáng sản.

 Chương trình xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở.

 Chương trình củng cố kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp tác và sắp xếp quản lý các thành phần kinh tế khác trong sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.

 Chương trình hợp tác, liên doanh trong và ngoài nước.

 Chương trình đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ và công nhân lao động trong tỉnh.

Có thể nói Nghị quyết 18-NQ/TU, ngày 17-2-1995 của Tỉnh uỷ Lâm Đồng (Khoá V) đã xác định rõ phương hướng phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 và những năm tiếp theo, tạo động lực thúc đẩy công nghiệp, công nghệ Lâm Đồng phát triển lên một trình độ mới.

Lãnh đạo, chỉ đạo lĩnh vực kinh tế, ngoài các nghị quyết, chỉ thị chuyên đề, hàng năm Tỉnh uỷ đều ban hành nghị quyết về mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội nhằm cụ thể hoá mục tiêu, nhiệm vụ đã được Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V đề ra. Các nghị quyết này xác định những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo cho nền kinh tế ổn định và phát triển với tốc độ ngày càng cao.

Trên lĩnh vực văn hoá-xã hội, Tỉnh uỷ có nhiều chủ trương thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tất cả các ngành, nhằm góp phần phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng an ninh. Trong giai đoạn 1991-1996, Tỉnh uỷ đã có những chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch nhằm cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ V và các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương (Khoá VII). Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VII) đã ban hành các nghị quyết về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục-đào tạo; những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân; chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình; công tác thanh niên trong thời kỳ mới; một số nhiệm vụ văn hoá-văn nghệ những năm trước mắt.

 Để thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương, ngày 28-6-1993 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh (Khoá V) tổ chức hội nghị lần thứ 6 và ra các nghị quyết chương trình hành động của tỉnh thực hiện các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (Khoá VII). Đó là Nghị quyết số 8a-NQ/TU về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục-đào tạo; Nghị quyết số 8b-NQ/TU về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân; Nghị quyết số 8c-NQ/TU về chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình; Nghị quyết 8D NQ/TU về công tác thanh niên trong thời kỳ mới; Nghị quyết số 8E NQ/TU về một số nhiệm vụ văn hoá-văn nghệ những năm trước mắt. Đây là lần đầu tiên, Tỉnh uỷ Lâm Đồng tập trung thảo luận và ban hành một lúc 4 Nghị quyết chuyên đề về lĩnh vực văn hoá-xã hội. Đó là điều kiện hết sức quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp văn hoá-xã hội phát triển nhanh hơn, mạnh hơn và bền vững hơn. Trên cơ sở các nghị quyết đã ban hành, Tỉnh uỷ chỉ đạo các cấp, ngành, đoàn thể, đặc biệt là các ngành, đoàn thể có liên quan phải xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết của Tỉnh uỷ.

Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, các cấp, ngành, đoàn thể trong tỉnh đã khẩn trương tổ chức học tập, quán triệt và xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết của Tỉnh uỷ và của Trung ương. Qua học tập, quán triệt, nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về các lĩnh vực giáo dục-đào tạo; chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân; chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình; văn hoá-văn nghệ và công tác thanh niên ngày càng đúng đắn và đầy đủ hơn. Cấp uỷ, chính quyền các cấp đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và tích cực triển khai thực hiện các nội dung, nhiệm vụ được nêu lên trong các nghị quyết. Nguồn lực đầu tư cho các lĩnh vực cũng được tăng cường. Các ngành, lĩnh vực liên quan chủ động đề ra các chương trình, giải pháp cụ thể, thiết thực để tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả; cán bộ, công chức của các ngành, lĩnh vực phấn khởi và quyết tâm thực hiện các mục tiêu, nội dung đã đề ra.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khoá V, ba năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4 (Khoá VII), Nghị quyết chương trình hành động của Tỉnh uỷ và Nghị quyết Trung ương 4, lĩnh vực văn hoá-xã hội của tỉnh có nhiều chuyển biến, tiến bộ rõ nét. Nổi bật trong các lĩnh vực xã hội là bước đầu tỉnh đã quán triệt và triển khai thực hiện chủ trương đa dạng hoá, xã hội hoá trong giải quyết các vấn đề xã hội. Tính năng động và chủ động của xã hội được phát huy, đời sống của đa số nhân dân được cải tiến đáng kể. Trong cơ chế thị trường, nhiều tổ chức, cá nhân đã biết khai thác tiềm năng về vốn, lao động, tri thức và kinh nghiệm để phát triển sản xuất kinh doanh. Đến năm 1995, toàn tỉnh có 70% số hộ vượt qua mức sống nghèo đói; GDP bình quân đầu người đạt 307 USD, tăng 50% so với năm 1990 và đạt 76,7% so với mục tiêu phấn đấu 400 USD vào năm 2000. Hàng năm giải quyết việc làm thường xuyên cho 20.000-25.000 lao động. Tình hình kinh tế-xã hội một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số có chuyển biến rõ rệt.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo tiếp tục phát triển cả về số lượng, chất lượng, hướng vào việc thực hiện yêu cầu “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Số học sinh các cấp học mỗi năm đều tăng khá. Số cháu trong độ tuổi đến mẫu giáo, nhà trẻ tăng lên, nhiều loại hình nhà trẻ, mẫu giáo ra đời; mô hình nhà trẻ, mẫu giáo bán trú được mở rộng, các cháu được ăn và theo dõi sức khoẻ tại lớp. Việc tách trường tiểu học và trung học cơ sở cơ bản hoàn thành. Loại hình trường bán công, dân lập mở ra ở những địa bàn thuận lợi. Mạng lưới trường lớp trên địa bàn tỉnh được mở rộng, nhất là ở bậc tiểu học, theo hướng gần dân. Hệ thống trường dân tộc nội trú mở theo khu vực cụm huyện. Bậc tiểu học phát triển vững chắc, đã có 81/128 xã, phường hoàn thành việc phổ cập tiểu học. Bậc trung học phổ thông sau một thời gian gặp khó khăn đã bắt đầu ổn định và phát triển. Hoạt động dạy nghề, dạy ngoại ngữ, tin học phát triển với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số được củng cố. Công tác phát hiện, bồi dưỡng học sinh năng khiếu có nhiều tiến bộ, đội ngũ giáo viên được tăng cường; cơ sở vật chất, thiết bị dạy-học được quan tâm đầu tư xây dựng hơn trước. Công tác quản lý giáo dục được cải tiến, dân chủ hoá trường học được coi trọng. Công tác xã hội hoá giáo dục đạt được những kết quả bước đầu.

Hoạt động khoa học-công nghệ có chuyển biến tiến bộ, gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, các hoạt động khoa học-công nghệ hướng vào khai thác, phát huy tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, góp phần tăng hiệu quả trong sản xuất, dịch vụ. Việc tiếp thu và áp dụng thành tựu khoa học và sản xuất-đời sống được coi trọng, nhất là lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học. Hoạt động khoa học-công nghệ đang dần thích ứng với cơ chế thị trường.

Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ. Ngành y tế tập trung củng cố mạng lưới y tế cơ sở, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Các chương trình, mục tiêu quốc gia về y tế triển khai khá đồng bộ và đạt kết quả cao. Tiêm chủng mở rộng bình quân hàng năm đạt 80-85%. Số người mắc bệnh sốt rét, bướu cổ và chết do sốt rét… giảm đáng kể. Cơ sở vật chất, thiết bị y tế, thuốc men cơ bản đáp ứng yêu cầu; các trạm y tế cơ sở đầu tư phương tiện, thiết bị tương đối khá, chất lượng hoạt động tốt hơn. Việc phòng chống tệ nạn xã hội, bệnh AIDS được chú ý hơn.

Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình đã triển khai tích cực. Mạng lưới truyền thông và dịch vụ dân số-kế hoạch hoá gia đình mở rộng, góp phần giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của tỉnh từ 2,9% năm 1991 xuống còn 2,4% năm 1995.

Hoạt động văn hoá-văn nghệ, thể dục-thể thao và thông tin đại chúng được đẩy mạnh. Nội dung, hình thức có sự đổi mới và hướng về cơ sở, phục vụ nhu cầu hưởng thụ của nhân dân, chú ý đối tượng vùng sâu, vùng xa, góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Phong trào thực hiện nếp sống có văn hoá, đấu tranh chống lại các tập quán hủ tục, lạc hậu được phát động. Phong trào thể dục-thể thao diễn ra rộng khắp, thu hút nhiều người tham gia, hàng năm tổ chức nhiều giải bóng đá, bóng chuyền, điền kinh, võ thuật… Hoạt động của các cơ quan thông tin đại chúng, công tác phát hành sách báo được tăng cường. Đài phát thanh-truyền hình của tỉnh đầu tư trang thiết bị ngày càng hiện đại hơn. Hệ thống truyền thanh phát triển đến tận cơ sở, hệ thống đài tiếp phát truyền hình phát triển đến các huyện trong tỉnh. Những kết quả đạt được đã góp phần làm cho thông tin về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đến sớm với cán bộ và nhân dân, nhất là ở cơ sở.

Phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc những người và gia đình có công với nước được quan tâm và thực hiện tốt hơn. Phong trào xoá đói giảm nghèo và các hoạt động từ thiện giúp đỡ người tàn tật, người gặp rủi ro, cơ nhỡ ngày càng mở rộng, được đông đảo nhân dân đồng tình ủng hộ.

Tóm lại, trong giai đoạn 1991-1995, lĩnh vực văn hoá-xã hội của tỉnh có nhiều chuyển biến tiến bộ. Tính chất xã hội hoá các hoạt động theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII) được tỉnh quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện và từng bước cụ thể hoá trong đời sống.

Tuy nhiên, tình hình xã hội của tỉnh giai đoạn 1991-1995 vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Số người không có hoặc thiếu việc làm nhất là trong thanh niên còn đông. Số trẻ em suy dinh dưỡng còn nhiều. Việc phòng, chống các bệnh sốt rét, bướu cổ và các tệ nạn xã hội còn nhiều hạn chế; chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân thấp. Tốc độ tăng dân số cao; trình độ dân trí ở nhiều nơi thấp kém, chất lượng giáo dục-đào tạo còn hạn chế so với yêu cầu. Công tác quản lý văn hoá phẩm độc hại, đồi truỵ còn nhiều sơ hở, chưa tạo điều kiện để các hoạt động văn hoá-nghệ thuật phát triển mạnh và đúng hướng. Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc trên địa bàn tỉnh còn nhiều bất cập, hạn chế. Tệ nạn, tiêu cực xã hội diễn biến phức tạp, nhất là tệ mê tín dị đoan. Sự phân hoá giàu-nghèo diễn ra gay gắt hơn. Tình hình kinh tế-xã hội một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn, chuyển biến chậm.

Tình hình quốc phòng-an ninh trong bối cảnh thế giới, trong nước và trong tỉnh có những diễn biến phức tạp, Tỉnh uỷ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một cách sâu sát, có hiệu quả. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (Khoá VII) ngày 29-6-1992 về nhiệm vụ quốc phòng và an ninh chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của địch, Tỉnh uỷ mở Hội nghị nghiên cứu, quán triệt sâu sắc những quan điểm, tư tưởng, nhiệm vụ được nêu lên trong Nghị quyết Trung ương 3; đồng thời thảo luận và ban hành Nghị quyết 05 của Tỉnh uỷ về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết 05 của Tỉnh uỷ đã tạo cho tình hình quốc phòng-an ninh trên địa bàn tỉnh có chuyển biến tích cực. Cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể các cấp; các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức được âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực phản động, thù địch, từ đó nâng cao hơn trách nhiệm trong việc củng cố quốc phòng, an ninh. Công tác quốc phòng, an ninh gắn chặt với bảo vệ sản xuất, xây dựng lực lượng nòng cốt, xây dựng lực lượng tự vệ để bảo vệ trật tự ở địa phương, đơn vị. Bên cạnh kết quả bước đầu, vẫn còn một số địa phương, cơ quan triển khai thực hiện nghị quyết chậm; biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác, đặc biệt tư tưởng hoang mang, dao động khi Liên Xô, Đông Âu sụp đổ…

Để chủ động đấu tranh với âm mưu bạo loạn, lật đổ của kẻ thù, ngày 28-4-1993, Ban thường vụ Tỉnh uỷ ban hành Chỉ thị số 10-CT/TU về việc tổ chức diễn tập thực nghiệm phòng thủ và phòng chống gây bạo loạn. Chỉ thị yêu cầu: kiểm tra đánh giá khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang địa phương theo phương án tác chiến phòng thủ và phòng chống gây bạo loạn trên địa bàn tỉnh; nâng cao năng lực hợp đồng tác chiến của bộ đội huyện, tỉnh và dân quân tự vệ; kiểm tra kết quả xây dựng và quản lý lực lượng dự bị động viên, lực lượng dân quân tự vệ đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tiếp tục nghiên cứu phương án tác chiến của bộ đội địa phương, dân quân tự vệ trong khu vực phòng thủ. Phương châm chung là: chuẩn bị chu đáo, sát tình hình thực tế; đảm bảo bí mật an toàn tuyệt đối; bảo đảm tính thiết thực, tiết kiệm và phù hợp với từng địa phương.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết 05 của Tỉnh uỷ và Chỉ thị 10 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ, công tác quốc phòng, an ninh đạt được những kết quả quan trọng, góp phần củng cố sức mạnh phòng thủ, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn. Sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng trong lực lượng vũ trang được tăng cường và củng cố một bước. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng-an ninh trong tình hình mới vẫn còn nhiều hạn chế về nhận thức, lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, kẻ thù tăng cường chống phá cách mạng nước ta với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, nham hiểm nhằm chuyển hoá chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh uỷ đã đề ra, ngày 14-1-1994, Ban thường vụ Tỉnh uỷ ban hành Chỉ thị 21-CT/TU, về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc phòng toàn dân trong tình hình mới. Chỉ thị của Ban thường vụ Tỉnh uỷ yêu cầu tập trung chỉ đạo thực hiện tốt những công tác lớn:

Một là, phải tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc trong các cấp, các ngành và trong toàn dân về nhận thức và trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Hai là, tiếp tục thực hiện việc xây dựng tỉnh, các huyện, thành và cơ sở trở thành các khu vực phòng thủ vững chắc.

Ba là, phải làm tốt công tác vận động các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đối với các tôn giáo, trí thức, văn nghệ sĩ và các nhà công thương gia.

Bốn là, củng cố, nâng cao chất lượng tổng hợp các lực lượng vũ trang địa phương, thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý quân dự bị động viên và tuyển quân năm 1994.

Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác quốc phòng toàn dân.

Sáu là, trong năm 1994, phát động phong trào thi đua rộng khắp ở các địa phương, cơ quan, đơn vị nhằm làm chuyển biến toàn diện công tác quốc phòng toàn dân.

Trong suốt nhiệm kỳ Đại hội V (1991-1995), bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, Tỉnh uỷ tập trung tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ quốc phòng-an ninh một cách mạnh mẽ, quyết liệt, đảm bảo giữ vững sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; kịp thời ngăn ngừa âm mưu phá hoại của các thế lực phản động, đặc biệt là lực lượng chống đối của một số phần tử cơ hội, bất mãn chống Đảng, chống chế độ.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng, Nghị quyết Đại hội V Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng và các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh uỷ, tình hình chính trị trên địa bàn của tỉnh tiếp tục giữ vững, quốc phòng-an ninh được củng cố, vững chắc; tinh thần cảnh giác cách mạng của nhân dân được nâng cao, nhận thức rõ hơn âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của địch; phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được đẩy mạnh; kịp thời phát hiện và ngăn chặn nhiều âm mưu, thủ đoạn chống phá của địch và các phần tử xấu; giải quyết tích cực đơn thư tố cáo, khiếu nại, kiến nghị của nhân dân và tình hình tranh chấp đất đai, nhà cửa trong nhân dân, kịp thời giải quyết một số điểm nóng, đấu tranh với những vi phạm của một số phần tử thoái hoá, cơ hội, bất mãn và một số người quá khích trong dân tộc ít người, trong tôn giáo, đấu tranh chống tệ nạn xã hội…, góp phần giữ vững ổn định chính trị ở địa phương và cùng với cả nước từng bước ngăn chặn âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.

Công tác đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu đạt được những kết quả nhất định với sự tham gia ngày càng có hiệu quả hơn.

Thực hiện đường lối quốc phòng toàn dân của Đảng, tỉnh đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng và tổ chức diễn tập các phương án phòng thủ, phòng chống bạo loạn lật đổ: nâng cao sức chiến đấu của lực lượng vũ trang chính quy, dân quân tự vệ và dự bị động viên. Công tác tuyển quân hàng năm đạt yêu cầu đề ra.

Các ngành trong khối nội chính có sự phối hợp chặt chẽ hơn, tập trung giải quyết tương đối kịp thời, có hiệu quả những vấn đề nổi cộm trong đời sống kinh tế-xã hội. Công tác khởi tố điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự thực hiện đúng trình tự tố tụng, hạn chế oan sai.

Tuy vậy, việc phòng, chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của địch còn một số yếu kém. Tình trạng mất cảnh giác có lúc, có nơi vẫn còn xảy ra ở một số địa phương, đơn vị, trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác xây dựng nền quốc phòng toàn dân chưa toàn diện, chưa đồng bộ và chưa có cơ sở vững chắc; chưa kết hợp chặt chẽ, hợp lý giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế như nghị quyết của Đảng đã đề ra. Công tác diễn tập phòng thủ khu vực, phòng chống bạo loạn chưa thật sát với tình hình địa phương; thực lực cách mạng tại chỗ, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng tôn giáo, dân tộc còn một số yếu kém.

Tình trạng kỷ cương phép nước không nghiêm, luật pháp bị vi phạm. Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công và các tệ nạn xã hội chưa ngăn chặn có hiệu quả, thậm chí có mặt còn trầm trọng hơn trước. Nạn tiêu cực trong lĩnh vực quản lý nhà và đất đai, tài nguyên, xây dựng cơ bản… còn xảy ra nghiêm trọng và kéo dài, việc phát hiện và xử lý còn chậm và ít.

Về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, phát huy dân chủ, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân.

Ngày 18-6-1992, Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VII) đã ra Nghị quyết về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Mục tiêu đổi mới và chỉnh đốn Đảng là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới; làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm thực hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị.

Ngày 28-8-1992, Tỉnh uỷ ra Nghị quyết về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VII) về đổi mới và chỉnh đốn Đảng với 8 nội dung quan trọng. Sau khi có Nghị quyết, các cấp uỷ đảng đã tổ chức học tập, quán triệt cho cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao nhận thức về đổi mới và chỉnh đốn Đảng là vấn đề cần thiết và cấp bách hiện nay để đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới đi đến thắng lợi. Trên cơ sở Nghị quyết của Tỉnh uỷ, các huyện uỷ, thành uỷ, Đảng uỷ trực thuộc và phần lớn các tổ chức cơ sở đảng đã xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết và chỉ đạo tổ chức thực hiện đạt kết quả. Nhiều đảng viên thoái hoá biến chất đã được xử lý, hầu hết đảng viên đều được phân công nhiệm vụ cụ thể, chất lượng đảng viên từng bước được nâng lên. Chất lượng sinh hoạt và hiệu quả lãnh đạo của nhiều tổ chức cơ sở đảng tốt hơn; công tác phát triển đảng viên mới được chú ý. Công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được các cấp uỷ quan tâm hơn trước. Phương thức lãnh đạo, nội dung công tác, quy chế làm việc của các cấp uỷ có sự chuyển biến tiến bộ.

Tuy nhiên, tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 và Chương trình hành động của Tỉnh uỷ còn nhiều hạn chế, thiếu sót cần tiếp tục khắc phục. Những hạn chế, thiếu sót đáng quan tâm là việc học tập, quán triệt cũng như triển khai thực hiện nghị quyết còn chung chung, thiếu những chủ trương, biện pháp cụ thể, không sát tình hình thực tế của địa phương; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng với đấu tranh chống tham nhũng, tệ quan liêu, nhiều cơ sở đảng còn nặng xử lý sai phạm chưa quan tâm đúng mức công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên; năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu tình hình mới; nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng ở một số nơi còn bị vi phạm, tỷ lệ cơ sở đảng đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh còn thấp, công tác phát triển đảng viên mới chưa đạt yêu cầu đề ra; việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ở các cấp uỷ chưa rõ…

Để khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 và chương trình hành động của Tỉnh uỷ đạt kết quả cao hơn, ngày 24-8-1994, Ban thường vụ Tỉnh uỷ đã ban hành Chỉ thị 24-CT/TU về tiếp tục chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (Khoá VII) về đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Chỉ thị yêu cầu các cấp uỷ đảng cần kiểm điểm, đánh giá nghiêm túc kết quả thực hiện công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong thời gian qua, tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Trung ương 3, chương trình hành động của Tỉnh uỷ, khảo sát cụ thể thực trạng của các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên để đề ra nội dung, giải pháp cụ thể nhằm xây dựng cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng và toàn Đảng bộ.

Quán triệt chỉ thị của Ban thường vụ Tỉnh uỷ về tiếp tục thực hiện các Nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh uỷ, các cấp uỷ đã triển khai thực hiện khá đồng bộ, tập trung chỉ đạo điểm, rút kinh nghiệm để nhân rộng, các ban tham mưu kịp thời hướng dẫn và thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, uốn nắn những lệch lạc trong quá trình thực hiện. Các tổ chức cơ sở đảng được củng cố, vai trò lãnh đạo ngày mỗi nâng lên. Niềm tin và uy tín của Đảng trong nhân dân được tăng cường. Vai trò tiền phong gương mẫu tính chiến đấu của đảng viên có chuyển biến rõ nét. Số tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh tăng lên, số cơ sở yếu kém giảm bớt. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng thực hiện tương đối tốt. Phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước đổi mới, hiệu quả lãnh đạo của tổ chức đảng các cấp được nâng lên. Hiện tượng dân chủ hình thức trong sinh hoạt Đảng dần dần được khắc phục. Các tổ chức chính trị-xã hội và nhân dân tích cực tham gia phê bình, góp ý kiến xây dựng Đảng.

 Về công tác tư tưởng, trong bối cảnh Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, tình hình thế giới diễn biến cực kỳ phức tạp, Đảng bộ đã coi trọng công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục nhằm làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân quán triệt được tình hình mới, xây dựng niềm tin và ý chí, kiên định lý tưởng cách mạng, củng cố khối đoàn kết, nhất trí trong Đảng, đấu tranh chống địch phá hoại về tư tưởng, chống đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

 Về công tác tổ chức, cán bộ, đến tháng 11-1995, toàn Đảng bộ có 11.718 đảng viên, tăng 20,5% so với cuối năm 1990. Cơ cấu đội ngũ đảng viên: dân tộc 9% (tăng 1%); dưới 30 tuổi 10,6%; trình độ trung cấp 18,6%, cao đẳng-đại học trở lên 18,4%; trình độ lý luận cao cấp 5,2%, trung cấp 20%. Chất lượng đảng viên: loại 1(tiền phong gương mẫu) 68%, loại 2 (28,6%), vi phạm tư cách 2,5%, không đủ tư cách 0,9%. Công tác kết nạp đảng viên mới có chuyển biến tốt; trong nhiệm kỳ kết nạp được 1.836 đảng viên, tăng 32,8% so với nhiệm kỳ trước, trong đó nữ 13%, dân tộc 8%, cán bộ chủ chốt xã, phường 11%, trình độ văn hoá cấp 3 là 29%, đại học là 26%, trẻ là 25%. Về công tác tổ chức cơ sở đảng, toàn Đảng bộ có 537 tổ chức cơ sở đảng (111 Đảng bộ cơ sở), trong đó có 98 cơ sở xã, 29 cơ sở phường, thị trấn, 115 cơ sở sản xuất kinh doanh, 54 cơ sở lực lượng vũ trang, 230 cơ sở hành chính sự nghiệp, 11 cơ sở khác. Số tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh tăng từ 12% năm 1991 lên 23% năm 1994, số cơ sở khác tăng từ 64% (1991) lên 66% (1994), số cơ sở yếu kém giảm từ 24% xuống còn 11%. Bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể được củng cố, sắp xếp theo hướng gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, chức năng được xác định rõ ràng hơn.

 Về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, tiếp tục rà soát, thẩm tra xét công nhận Đảng tịch cho số đảng viên bị bắt, bị tù; tập trung phát hiện thẩm tra, xác minh và kết luận, xử lý những cán bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử chính trị trị chưa rõ ràng, có liên quan đến các tổ chức, các đầu mối tình báo, gián điệp của địch. Tháng 8-1993, Ban bảo vệ chính trị nội bộ của Tỉnh uỷ được thành lập. Với chức năng là một cơ quan tham mưu về bảo vệ chính trị nội bộ, giúp Ban thường vụ Tỉnh uỷ soạn thảo kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị 23-CT/TW của Trung ương Đảng. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ đã góp phần vào việc làm trong sạch, thuần khiết một bước về chính trị nội bộ của Đảng bộ.

 Về công tác kiểm tra, Uỷ ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra 593 lượt tổ chức về chấp hành nguyên tắc sinh hoạt Đảng, về thực hiện quy chế làm việc, về thi hành kỷ luật. Qua kiểm tra, đã kết luận 43,5% tổ chức cơ sở có vi phạm và hơn 34% tổ chức được kiểm tra chưa xây dựng quy chế làm việc. Kiểm tra đảng viên được 3.193 lượt, chiếm 36% tổng số đảng viên, trong đó có 1.154 cấp uỷ viên các cấp. Nội dung kiểm tra chủ yếu tập trung vào nguyên tắc sinh hoạt đảng, giữ gìn phẩm chất đạo đức. Kết quả kiểm tra đã xử lý kỷ luật 4 tổ chức (1 khiển trách, 3 cảnh cáo) và 507 đảng viên (7 tỉnh uỷ viên, 45 huyện uỷ viên, 136 cấp uỷ viên cơ sở); hình thức kỷ luật đảng viên: khiển trách 169 (33,3%), cảnh cáo 182 (35%), cách chức 47 (9,3%), khai trừ 109 (21,5%).

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là số trẻ và trí thức còn hoang mang dao động, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; chạy theo lối sống thực dụng, tham nhũng, vun vén cá nhân, sống buông thả, xa hoa, lãng phí làm mất uy tín của Đảng đối với nhân dân; tư tưởng cục bộ, ý thức kỷ luật kém, tình trạng mất đoàn kết nội bộ xảy ra ở nhiều nơi; tư tưởng rập khuôn, máy móc, hữu khuynh, ngại đấu tranh khá phổ biến. Việc đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, chưa sắc bén kịp thời.

 Chất lượng đảng viên còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu về đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Ý chí đấu tranh chống tiêu cực trong xã hội, trong nội bộ Đảng, chống tư tưởng sai trái để bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, của bản thân cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng còn hạn chế. Tinh thần tự giác tự phê bình, phê bình trong nhiều tổ chức Đảng còn yếu; số tổ chức cơ sở đảng yếu kém còn cao. Năng lực lãnh đạo kinh tế của Đảng bộ xã, phường còn hạn chế, đội ngũ cán bộ cơ sở còn nhiều bất cập, yếu kém. bộ máy các ngành của tỉnh còn hạn chế trong công tác điều hành, tổ chức thực hiện, thiếu khả năng nhanh nhạy trong kinh tế thị trường. Công tác tạo nguồn cán bộ từ tỉnh đến cơ sở còn nhiều lúng túng, kết quả thấp. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, tình trạng hụt hẫng cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa khắc phục được, nhất là cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số.

 Công tác kiểm tra và hoạt động của Uỷ ban kiểm tra các cấp còn bị động, phân tán, chất lượng và hiệu quả thấp. Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và một số vụ việc tham nhũng còn để kéo dài gây dư luận không tốt. Đội ngũ cán bộ kiểm tra chậm được tăng cường, củng cố, số lượng thiếu, chất lượng chưa cao.

Từ thực tiễn công tác xây dựng Đảng, các cấp uỷ đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc là: Muốn củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng, tính tiền phong gương mẫu của đảng viên, trước hết cần xác định đúng nhiệm vụ chính trị, đề ra các biện pháp cụ thể, thiết thực về phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; thực hiện việc phân công trách nhiệm rõ ràng cho cán bộ, đảng viên; nâng cao trách nhiệm của các cấp uỷ, nhất là đồng chí bí thư; gắn chặt giữa công tác đảng với công tác chính quyền, mặt trận và các đoàn thể thành một khối thống nhất.

Công tác quần chúng của Đảng bộ có sự đổi mới cả về nội dung và phương thức lãnh đạo, nhất là từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VI) và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Tỉnh uỷ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 về “đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Các cấp uỷ Đảng đã nhận thức sâu sắc và quan tâm nhiều hơn về công tác dân vận, mặt trận, các đoàn thể. Nhiều cấp uỷ quan tâm củng cố hệ thống dân vận, xây dựng chương trình, kế hoạch về công tác quần chúng trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh uỷ; định kỳ làm việc với mặt trận và các đoàn thể; phân công đảng viên theo dõi, giúp đỡ quần chúng, thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần chúng để phản ánh cho tổ chức đảng và các ngành có liên quan. Sự lãnh đạo của tổ chức đảng đối với mặt trận và các đoàn thể sâu sát, cụ thể và có hiệu quả thiết thực, tạo điều kiện cho các tổ chức đoàn thể phát huy vai trò của mình trong tập hợp, vận động, thuyết phục quần chúng và tổ chức tốt phong trào cách mạng trong các tầng lớp nhân dân.

Hoạt động của Mặt trận các cấp, các đoàn thể và các tổ chức xã hội trong tỉnh có nhiều cải tiến, đổi mới và tiến bộ; xây dựng nhiều mô hình tiêu biểu trên các lĩnh vực; có nhiều việc làm cụ thể, thiết thực, đáp ứng lợi ích và tâm tư tình cảm của quần chúng nhân dân; bước đầu góp phần phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng và văn hoá, tham gia kiểm tra, giám sát và phê bình góp ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp; tạo ra thế và lực mới trong phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quan hệ giữa các dân tộc, các tầng lớp nhân dân cũng như quan hệ giữa Đảng với nhân dân, giữa nhân dân với chính quyền các cấp không ngừng được củng cố và ngày càng mật thiết hơn; phần đông nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền, tin tưởng vào thành công của sự nghiệp đổi mới.

Tuy nhiên, bộ máy của cơ quan Mặt trận và các đoàn thể vẫn còn mang nặng tính hành chính, hình thức, chưa sát cơ sở và quần chúng, lúng túng về nội dung và phương pháp hoạt động trong điều kiện mới. Tỷ lệ tập hợp quần chúng vào tổ chức còn thấp, nhiều vấn đề bức xúc của dân chưa được giải quyết kịp thời. Các tổ chức xã hội nghề nghiệp, nhân đạo từ thiện… phát triển nhanh, nhưng sự lãnh đạo, chỉ đạo định hướng hoạt động của các cấp uỷ Đảng, quản lý Nhà nước của chính quyền các cấp còn yếu và chưa chặt chẽ.

II. ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ TRONG TỈNH

Sau 10 năm kiên trì thực hiện đường lối đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, nước ta cơ bản đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội, thế và lực của đất nước có những biến đổi lớn cả ở bên trong và bên ngoài, nhiều tiền đề cần thiết cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được tạo ra.

Từ sự phân tích khoa học những thành tựu cũng như những khuyết điểm yếu kém của 10 năm đổi mới, trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường, Đại hội VIII của Đảng đã quyết định “tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

Trong giai đoạn 1996-2000, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ XXI.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ VI được tiến hành từ ngày 26 đến 29-4-1996, tại thành phố Đà Lạt. Về dự Đại hội có 294 đồng chí đại biểu, đại diện cho 12.578 đảng viên ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau trong toàn Đảng bộ.

 Đại hội VI bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 45 đồng chí. Ban chấp hành bầu Ban Thường vụ Tỉnh uỷ gồm 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Ánh Minh được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ; đồng chí Huỳnh Minh Xuyến được bầu làm Phó Bí thư thường trực Tỉnh uỷ; đồng chí Nguyễn Hoài Bão được bầu làm Phó Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (28-6 đến 1-7-1996), đồng chí Nguyễn Ánh Minh được bầu vào Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VIII). [10]

Nhiệm vụ trọng tâm của Đại hội là tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội V của Đảng bộ tỉnh, đánh giá những việc làm được, những việc chưa làm được, những vấn đề mới nẩy sinh, chỉ ra những ưu điểm, yếu kém, những tồn tại, đồng thời tìm ra những nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội V đã đề ra. Trên cơ sở đó, Đại hội đề ra mục tiêu, phương hướng và các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cho thời kỳ 1996-2000 nhằm kết thúc thắng lợi giai đoạn cuối cùng của thế kỷ XX, tạo tiền đề và điều kiện bước vào thế kỷ XXI.

Đại hội lần thứ VI của Đảng bộ tỉnh được xác định là Đại hội tiếp tục sự nghiệp đổi mới nhằm thực hiện mục tiêu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời kỳ 1996-2000 là: Ra sức bồi dưỡng và phát huy yếu tố con người; xây dựng Đảng bộ vững mạnh trong sạch; phấn đấu ổn định và tăng trưởng kinh tế nhanh hơn và hiệu quả hơn, vững chắc hơn, đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng, quyết tâm nhanh chóng đưa Lâm Đồng vượt qua tình trạng nghèo và kém phát triển, cải thiện mức sống các tầng lớp nhân dân, nâng cao tích luỹ nội bộ, chuẩn bị các tiền đề cần thiết cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000.

Đại hội đề ra một số mục tiêu cụ thể để phấn đấu trong giai đoạn 1996- 2000 trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội.

 Đạt nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm từ 15% trở lên. Đến năm 2000, GDP bình quân đầu người đạt 550- 600 USD, thu ngân sách đạt 18- 20% GDP.

 Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 2% trở xuống. Hoàn thành định canh định cư vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cải thiện điều kiện ăn ở, đi lại cho nhân dân vùng sâu, vùng xa, 80% số xã có điện và sử dụng nguồn nước sạch. Hoàn thành việc phổ cập tiểu học trên phạm vi toàn tỉnh; phổ cập cấp 2 ở thị trấn, thị xã, thành phố và ở 30% số xã vùng nông thôn phát triển, phổ cập cấp 3 ở các cơ quan Nhà nước. Giải quyết cơ bản việc làm và đảm bảo đời sống cho người lao động, thực hiện xoá đói, thu hẹp hộ nghèo xuống dưới 20%.

 Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội.

 Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính quyền các cấp, trọng tâm là cải cách nền hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý điều hành của chính quyền các cấp; phát huy dân chủ, lập lại trật tự kỷ cương xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.

 Tạo chuyển biến căn bản trong đổi mới và chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Phấn đấu đến năm 2000 có 60-70% số cơ sở Đảng đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh, không còn cơ sở đảng yếu kém, mỗi năm mỗi cơ sở đảng còn nguồn phát triển đảng, phát triển ít nhất 2 đảng viên mới, đẩy mạnh phát triển đảng viên mới ở 91 thôn, buôn chưa có đảng viên.

Bước vào những năm đầu triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, trong hoàn cảnh thiên tai bão lụt thường xuyên xảy ra và trên diện rộng, tình hình di dân tự do ồ ạt từ các tỉnh phía Bắc vào không kiểm soát được, khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam Á và một số nước trên thế giới đã tác động mạnh làm cho nền kinh tế của tỉnh đứng trước những khó khăn, thách thức, nhưng Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc vượt qua khó khăn, ổn định tình hình, tiếp tục phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế-xã hội của tỉnh.

Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế-xã hội của tỉnh trong năm 1996 đều tăng. Tốc độ GDP tăng so với năm 1995 ước khoảng 9,5-10%. Giá trị tổng sản lượng ngành nông-lâm nghiệp ước tăng 5%. Dịch vụ tăng 13-14%; kim ngạch xuất khẩu đạt 42,6 triệu USD tăng 17,35% so với năm 1995. Tổng đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội đạt 581,4 tỷ đồng (chiếm 28,6% GDP) tăng 31,7%; tổng thu ngân sách Nhà nước đạt 280 tỷ đồng (đạt 93,3% kế hoạch) tăng 27,7% so với năm 1995 và đạt tỷ lệ 15% GDP.

Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP năm 1996 chỉ đạt 9,5- 10% so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra là 15%, tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GPD còn khá cao (chiếm 56,7%); công nghiệp xây dựng chiếm 12,8%, trong khi thế mạnh kinh tế du lịch- dịch vụ tăng không đáng kể (chiếm 30%). Nhiều chỉ tiêu kinh tế như thu, chi ngân sách, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đo đạc cấp quyền sử dụng đất đạt thấp so với kế hoạch. Một số lĩnh vực phát triển tự phát, nhất là trong nông nghiệp, du lịch-dịch vụ, công nghiệp chế biến chè, lâm sản... kinh tế hợp tác yếu kém kéo dài, đầu tư trong nước không đáng kể, tỉnh còn thiếu kế hoạch, biện pháp, chính sách và hành lang pháp lý thuận lợi để thu hút vốn đầu tư.

Nhằm thúc đẩy kinh tế hợp tác xã phát triển lành mạnh, đúng hướng, khẳng định được vị trí của mình trong nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, Tỉnh uỷ ra Chỉ thị 24-CT/TU ngày 28-11-1997, yêu cầu các cấp uỷ Đảng, Đảng đoàn, Ban cán sự Đảng các Ban, ngành, đoàn thể, đơn vị có liên quan tiến hành tổ chức sắp xếp và đăng ký các hợp tác xã hiện có hoạt động theo luật hợp tác xã và Nghị định của Chính phủ, qua đó làm cho các hợp tác xã thật sự là một đơn vị kinh tế tập thể của những người lao động tự nguyện, cùng góp vốn, góp sức, sản xuất- kinh doanh, dịch vụ theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi; chỉ đạo, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các loại hình kinh tế hợp tác phát triển ở mức cao hơn; rà soát lại tất cả các hợp tác xã để tổ chức lại hoặc giải thể những hợp tác xã chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Tỉnh uỷ chủ trương huy động mọi nguồn vốn từ Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong toàn xã hội để đầu tư cho phát triển sản xuất-kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng, bưu chính viễn thông... tạo động lực thúc đẩy phát triển mạnh mẽ nền kinh tế của tỉnh.

Bước sang năm 1998, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực; nắng hạn, bão lụt... đã làm cho tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế bị chững lại. Nhiều chỉ tiêu không đạt kế hoạch, tổng thu ngân sách chỉ đạt dưới 300 tỷ so với Nghị quyết 12 NQ/TU ngày 20-1-1998 đề ra là 420-450 tỷ; một số vùng kinh tế-xã hội phát triển chậm, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng không có điều kiện phát triển cây công nghiệp, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo 12,7%, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 22,7%. Kinh tế hợp tác chưa có bước chuyển biến rõ nét, nhiều hợp tác xã sau khi chuyển đổi theo luật hợp tác xã mô hình, nội dung hoạt động chưa rõ, các loại hình kinh tế hợp tác khác còn mang nặng tính đoàn thể, tính chất hợp tác về kinh tế còn rất hạn chế, một số doanh nghiệp liên doanh trên địa bàn tỉnh gặp không ít khó khăn, sản xuất- kinh doanh thua lỗ...

Trước tình hình đó, ngày 29-1-1999, Tỉnh uỷ họp và ra Nghị quyết 16-NQ/TU phân tích nguyên nhân khách quan, chủ quan và đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế. Nghị quyết nhấn mạnh, bằng mọi biến pháp, tiếp tục giữ vững tốc độ phát triển ở một số ngành và lĩnh vực kinh tế trọng yếu của tỉnh; phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phát huy năng lực công nghiệp chế biến gắn với đổi mới thiết bị máy móc và công nghệ.

Tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các thành phần kinh tế, bảo đảm hoạt động đúng hướng và có hiệu quả. Cải tiến cơ chế thu, chi, cấp phát ngân sách, gắn trách nhiệm với quyền lợi của các cấp, ngành, đơn vị. Điều chỉnh cơ cấu chi theo hướng ngoài việc bảo đảm các khoản chi cần thiết, chi thường xuyên theo quy định, chi xây dựng cơ bản, phải ưu tiên tăng mức chi ngân sách cho các ngành, lĩnh vực theo các nghị quyết của Đảng như phát triển nông nghiệp, nông thôn, giáo dục- đào tạo, khoa học- công nghệ và sự nghiệp phát triển văn hoá...

Nhiệm vụ cấp bách trước mắt là phải ưu tiên giải quyết tình hình đời sống kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, đưa những vùng này sớm ổn định cuộc sống và từng bước phát triển kịp với những vùng thuận lợi khác của tỉnh. Ngày 12-4-1999, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ khoá VI đã họp và ra Chỉ thị 44-CT/TU chỉ đạo thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói, giảm nghèo và phát triển kinh tế- xã hội vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh. Chỉ thị đề ra 3 yêu cầu cơ bản:

Tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện nội dung Chỉ thị 23 CT/TW ngày 29-11-1997 của Bộ Chính trị, Thông tri 07 TT/TU ngày 23-12-1997 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về tăng cường lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói, giảm nghèo; Chỉ thị 25 CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về xây dựng xã điểm vùng dân tộc thiểu số của tỉnh.

Kiểm tra, rà soát lại tình hình đói nghèo trong toàn tỉnh (kể cả số dân di cư tự do), đồng thời đánh giá lại thực trạng tình hình kinh tế- xã hội, đời sống dân cư 27 xã điểm vùng đồng bào dân tộc đã được đầu tư xây dựng. Đẩy nhanh việc quy hoạch, sắp xếp nơi ở và sản xuất cho số dân di cư tự do, tạo điều kiện giúp ổn định cuộc sống cho họ, coi đây là một trong những biện pháp quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu về xoá đói, giảm nghèo của tỉnh.

Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục trong các tầng lớp dân cư, nhất là đồng bào dân tộc đoàn kết tương trợ, giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống, thực hiện xoá đói, giảm nghèo gắn với thực hiện có kết quả các chương trình dân số- kế hoạch hoá gia đình, xây dựng gia đình văn hoá ở khu dân cư, vệ sinh phòng bệnh...

Đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội năm 1999, Nghị quyết 19 NQ/TU, ngày 25-1-2000 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (Khoá VI) nhận định: Mặc dù tình hình các mặt còn rất nhiều khó khăn, nhưng Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu đưa kinh tế-xã hội tiếp tục tăng trưởng và phát triển. Tốc độ tăng trưởng GDP trên 10%, giá trị sản xuất ngành nông-lâm nghiệp tăng 20%; công nghiệp-xây dựng tăng 10%, dịch vụ tăng 2%. Riêng trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mặc dù còn nhiều khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường... nhưng ở một số lĩnh vực sản xuất như chế biến chè, ươm tơ, dệt lụa... tiếp tục đi dần vào thế ổn định và có bước phát triển đáng kể so với những năm trước. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp khác sau khi được cổ phần hoá đã hoạt động có hiệu quả, từng bước thích ứng với cơ chế thị trường. Tổng thu ngân sách Nhà nước đạt 391 tỷ đồng, vượt gần 7% so với kế hoạch địa phương. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 20% so với GDP, cơ sở hạ tầng (giao thông, thuỷ lợi, điện, bưu chính viễn thông...) tiếp tục được tăng cường và củng cố thêm một bước.

Đời sống các tầng lớp nhân dân tiếp tục được cải thiện về nhiều mặt, kể cả ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ hộ đói nghèo toàn tỉnh giảm xuống còn 8,7%, riêng trong 27 xã điểm vùng đồng bào dân tộc còn 17,98%.

Tuy vậy, tình hình kinh tế-xã hội vẫn còn nhiều mặt yếu kém, tồn tại, một số chỉ tiêu kinh tế quan trọng không đạt kế hoạch đề ra như giá trị kim ngạch xuất khẩu (đạt 92% kế hoạch), tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản (đạt 95,4% kế hoạch), tổng sản lượng lương thực quy thóc (đạt 94,5% kế hoạch)... Tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy ở mức khá cao nhưng chưa thật ổn định và bền vững; chất lượng và hiệu quả nền kinh tế còn thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Hoạt động du lịch-dịch vụ còn nhiều khó khăn, sản phẩm du lịch-dịch vụ chậm được đổi mới. Tình trạng đầu tư dàn trải, không theo quy hoạch, kế hoạch còn xảy ra ở một số cấp, ngành, gây lãng phí. Đầu tư nước ngoài tiếp tục gặp khó khăn, cả về gọi vốn đầu tư và hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Những yếu kém tồn tại nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Một số cơ chế chính sách do tỉnh đề ra chưa đủ sức hấp dẫn để phát huy nội lực trong dân và thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài. Bộ máy hành chính còn chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Kỷ cương luật pháp chưa được chấp hành nghiêm túc. Thủ tục hành chính có được cải thiện một bước nhưng vẫn còn nhiều phiền hà ách tắc, nhất là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, cấp phép đầu tư, quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản.... Tinh thần trách nhiệm, tác phong, lề lối, thái độ làm việc của một bộ phận cán bộ, trong đó có cả cán bộ chủ chốt sở, ngành, địa phương còn nhiều yếu kém... nhất là trong quan hệ, giao tiếp, giải quyết công việc cho các tổ chức, cá nhân và nhân dân.

Bước vào thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2000 được coi là năm cuối cùng thực hiện kế hoạch 5 năm (1996-2000), là năm chuẩn bị triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm tiếp theo (2001-2005), mặc dù vẫn còn nhiều mặt khó khăn như: diễn biến bất thường của thời tiết tiếp tục diễn ra khó lường, tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh còn chứa đựng nhiều yếu tố thiếu vững chắc, cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội ở nhiều nơi còn nghèo nàn, lạc hậu, lại phải chịu sự tác động quyết liệt và gay gắt của cơ chế thị trường. Đời sống nhân dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng nông thôn còn nhiều khó khăn.

Với quyết tâm khắc phục khó khăn, tỉnh đề ra mục tiêu phấn đấu trong năm 2000 là: Tiếp tục phát huy tinh thần tự lực, tự cường, khai thác và sử dụng có hiệu quả các yếu tố nội lực, nhất là về tài nguyên, môi trường, đất đai, khí hậu, vốn, lao động...; đồng thời tranh thủ mọi nguồn vốn bên ngoài, tranh thủ sự đầu tư, hỗ trợ của Trung ương; kịp thời cụ thể hoá, tổ chức thực hiện có kết quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; phấn đấu đạt ở mức cao nhất các chỉ tiêu kinh tế-xã hội do Đại hội VI Đảng bộ tỉnh đề ra; chủ động tạo tiền đề thuận lợi cho thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội của 5 năm đầu thiên niên kỷ mới.

Để thực hiện được mục tiêu nêu đó, Tỉnh uỷ đề ra 6 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cần thực hiện trong năm 2000 là:

Tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn theo tinh thần Nghị quyết 06 NQ/TW ngày 10-11-1998 của Bộ Chính trị (khoá VIII) về một số vần đề phát triển nông nghiệp và nông thôn gắn với đầu tư phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến.

Tập trung đẩy mạnh phát triển du lịch- dịch vụ, từng bước đưa ngành du lịch-dịch vụ trở thành ngành kinh tế động lực.

Tăng cường các biện pháp cụ thể về đầu tư và thu hút vốn đầu tư phát triển.

Tiếp tục củng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác; tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.

Giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và tăng cường công tác quốc phòng-an ninh.

Tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu lực lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước về kinh tế-xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở.

Nhờ đánh giá đúng thực trạng tình hình cũng như những khó khăn thách thức của nền kinh tế, từ đó đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, kinh tế Lâm Đồng có bước phát triển khá. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GDP) của tỉnh tăng bình quân hàng năm đạt 14,8%, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp (năm 1995, tỷ trọng ngành nông-lâm- thuỷ sản 57,2%, công nghiệp và xây dựng 14,6%, các ngành dịch vụ 28,2%. Năm 2000, cơ cấu ngành nông-lâm- thuỷ sản 51,4%, công nghiệp và xây dựng 19,2%, các ngành dịch vụ 29,4%).

 Kinh tế nông nghiệp và nông thôn phát triển theo hướng mở rộng vùng chuyên canh, khai thác lợi thế của từng vùng sinh thái, kết hợp sản xuất nông-lâm với phát triển các ngành nghề dịch vụ, đã xuất hiện nhiều mô hình sản xuất kinh doanh hiệu quả cao. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 26,4%, phát huy được thế mạnh cây công nghiệp dài ngày, hình thành rõ nét các vùng nguyên liệu tập trung gắn với công nghiệp chế biến. Tổng diện tích cây công nghiệp dài ngày năm 2000 tăng gấp 2,5 lần so với năm 1995. Sản lượng lương thực, rau đạt và vượt chỉ tiêu do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V đề ra; sản xuất được nhiều loại hoa có giá trị kinh tế cao tiêu thụ trên thị trường trong nước và phục vụ xuất khẩu. Trong lâm nghiệp, tập trung trồng, chăm sóc, quản lý bảo vệ rừng, đạt độ che phủ từ 56,6% năm 1995 lên 63% năm 2000.

Về công nghiệp, từng bước củng cố, sắp xếp các doanh nghiệp, gắn xây dựng nhà máy chế biến với phát triển vùng nguyên liệu, đồng thời đầu tư tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh ở một số ngành hàng có thị trường tiêu thụ như chè, hạt điều, vật liệu xây dựng..., góp phần nâng tỷ trọng công nghiệp-xây dựng trong GDP từ 14,6% năm 1995 lên 19,2% năm 2000.

Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, đặc biệt là giao thông, bưu chính viễn thông, điện, nước sạch, thuỷ lợi và các công trình phúc lợi công cộng không ngừng được củng cố và tăng cường, tạo tiền đề quan trọng cho phát triển kinh tế- xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Lâm Đồng.

Cùng với phát triển thương mại ở thành phố, thị xã và các thị trấn, mạng lưới thương nghiệp chủ yếu là tư nhân, cá thể tiếp tục phát triển đến các vùng sâu, vùng xa góp phần thúc đẩy giao lưu hàng hoá, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân. Hoạt động du lịch có bước phát triển mới về chất, đã mở thêm một số điểm và loại hình kinh doanh mới, tạo khả năng thu hút số lượng ngày càng đông khách du lịch trong nước và nước ngoài.

Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số được nâng lên rõ rệt, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo trong vùng này từ 40% năm 1995 xuống còn khoảng 18% năm 2000. Về cơ bản xoá được nạn đói giáp hạt và nạn phá rừng làm rẫy.

Nhận thức sâu sắc quan điểm của Đảng coi giáo dục-đào tạo và khoa học-công nghệ là quốc sách hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giáo dục- đào tạo cùng với khoa học-công nghệ là động lực, là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục- đào tạo và khoa học- công nghệ là đầu tư cho sự phát triển, Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng (Khoá VI) đã đề ra Nghị quyết 09 NQ/TU ngày 22-5-1997 về việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (Khoá VIII) về định hướng chiến lược phát triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết của Tỉnh uỷ đề ra 4 mục tiêu quan trọng để phát triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo của tỉnh đến năm 2000:

Một là, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo ở các ngành học, bậc học.

Hai là, củng cố vững chắc kết quả phổ cập tiểu học và chống mù chữ.

Ba là, đảm bảo đủ giáo viên cho nhu cầu phát triển.

Bốn là, tạo chuyển biến mạnh mẽ về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học...

Tỉnh uỷ đề ra 8 nhiệm vụ cụ thể để phát triển sự nghiệp giáo dục- đào tạo trong thời gian tới:

Tiến hành quy hoạch hệ thống mạng lưới trường học trên địa bàn toàn tỉnh; đến cuối năm 1998 hoàn thành công tác quy hoạch, giao quyền sử dụng đất cho các trường học, các trường đào tạo dạy nghề.

Đầu tư củng cố, sắp xếp nâng cao năng lực đào tạo của các trường, các trung tâm giáo dục thường xuyên, giáo dục hướng nghiệp, trung tâm giáo dục chính trị cấp huyện.

Tiếp tục đầu tư xây dựng củng cố các trường phổ thông dân tộc nội trú.

Đẩy mạnh công tác quy hoạch đào tạo để tạo nguồn cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh sau năm 2000.

Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Đến năm 2000 phải đảm bảo chuẩn hoá 100% đội ngũ giáo viên.

Lập lại trật tự kỷ cương trong giáo dục-đào tạo, trọng tâm là chấn chỉnh việc dạy thêm, học thêm.

Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về giáo dục-đào tạo.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục-đào tạo. Phấn đấu đến năm 2000 hầu hết các trường phổ thông phải có tổ chức Đảng.

Quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (Khoá VIII) và Nghị quyết 09 NQ/TU của Tỉnh uỷ (Khoá VI) đã đưa sự nghiệp giáo dục- đào tạo của tỉnh phát triển tương đối toàn diện, quy mô tiếp tục phát triển đúng hướng, vững chắc, góp phần đem lại những tiến bộ rõ nét trong việc xây dựng xã hội học tập, cơ bản thực hiện được các mục tiêu về nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Mạng lưới trường lớp vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các địa bàn khó khăn được đầu tư xây dựng, bố trí phù hợp, đáp ứng nhu cầu học tập của con em. Trong năm học 1999- 2000, toàn tỉnh có 55.037 học sinh dân tộc thiểu số, trong đó: Mầm non 6.736 học sinh; Tiểu học 37.388 học sinh; Trung học cơ sở 9.674 học sinh; Trung học phổ thông 1.239 học sinh; Đã xây dựng được 1 trường dân tộc nội trú tỉnh và 4 trường dân tộc nội trú huyện.

Chất lượng giáo dục các ngành học, bậc học tiếp tục được giữ vững ở mức độ khá so với mặt bằng chung của các tỉnh trong khu vực, giáo dục toàn diện được chăm lo hơn, công tác đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi tiếp tục đạt kết quả khá tốt. Năm học 1999-2000, học sinh tốt nghiệp tiểu học đạt 99,3%; trung học cơ sở 92,9%; trung học phổ thông 82,8%; bổ túc cơ sở 94,9%; bổ túc trung học 93,9%; có 57 học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia trên tổng số 74 học sinh dự thi, đạt tỷ lệ 77%.

Trật tự, vệ sinh, nề nếp kỷ cương trong giáo dục-đào tạo cơ bản được củng cố, chấn chỉnh một bước khá quan trọng và có nhiều tiến bộ so với những năm trước đây. Việc quản lý dạy, học, thi cử đã được thực hiện nghiêm túc đúng quy chế.

Tháng 4-1997, Lâm Đồng được công nhận đạt chuẩn quốc gia về công tác chống mù chữ và phổ cập tiểu học. Đến năm 2000, toàn tỉnh đã có 2 thị trấn và 18 xã, phường đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở, một đơn vị hành chính cấp huyện là thành phố Đà Lạt được công nhận đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở.

Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên được tập trung hơn và đạt kết quả khá tốt, cơ bản đảm bảo nhu cầu phát triển giáo dục ở các vùng trong tỉnh. Công tác chính trị, tư tưởng, phát triển đảng viên trong các nhà trường được tăng cường, có chuyển biến và đạt kết quả tích cực. Đặc biệt, sau khi có Chỉ thị 34 CT/TW ngày 30-5-1998 của Bộ Chính trị (Khoá VIII) về “Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng đoàn thể quần chúng và công tác phát triển đảng viên trong các trường học”, Tỉnh uỷ (Khoá VIII) đã xây dựng Kế hoạch 11 KH/TU ngày 18-9-1998 để thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, làm chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương cũng như toàn thể đội ngũ cán bộ công nhân viên ngành giáo dục-đào tạo của tỉnh đối với công tác chính trị tư tưởng, công tác đoàn thể và công tác phát triển đảng viên trong các trường học.

Sau 2 năm thực hiện Chỉ thị 34 của Bộ Chính trị và Kế hoạch 11 của Tỉnh uỷ, số lượng đảng viên được kết nạp từ ngành giáo dục- đào tạo đã có sự chuyển biến đáng kể: năm 1998 kết nạp 246 đảng viên, nâng tổng số đảng viên toàn ngành là 921 đảng viên/10.960 cán bộ công chức, chiếm tỷ lệ 8,40%; năm 1999 kết nạp được 263 đảng viên, nâng tổng số đảng viên toàn ngành là 1.184 đảng viên/11.978 cán bộ công chức, đạt tỷ lệ 9,88%; năm 2000, kết nạp được 322 đảng viên, nâng tổng số đảng viên toàn ngành là 1.506 đảng viên/12.969 cán bộ công chức đạt tỷ lệ 11,61%.

Các chế độ chính sách cơ bản được thực hiện kịp thời; điều kiện sinh hoạt của cán bộ, giáo viên vùng khó khăn được cải thiện một bước khá quan trọng về đất đai, nhà ở và các điều kiện khác.

Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (Khoá VIII) và Nghị quyết 09 NQ/TU của Tỉnh uỷ (Khoá VI), giáo dục- đào tạo vẫn còn bộc lộ một số yếu kém, như công tác quy hoạch phát triển mạng lưới trường lớp và về nhà ở, đất đai cho giáo viên, nhất là giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số triển khai còn chậm và thiếu đồng bộ. Công tác duy trì sĩ số cũng như chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên ở các trường vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế. Phương pháp giảng dạy chậm được đổi mới. Trật tự kỷ cương trong nhà trường tuy được chấn chỉnh và có bước chuyển biến đáng kể, song tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan vẫn còn là vấn đề bức xúc trong dư luận nhân dân, nhất là ở thành phố, thị xã, thị trấn của tỉnh. Xã hội hoá trên lĩnh vực giáo dục-đào tạo chưa thật sâu, rộng trong nhân dân, tâm lý bao cấp, ỷ lại vào Nhà nước vẫn còn rất nặng nề.

Đối với sự nghiệp khoa học-công nghệ, quán triệt Nghị quyết Trung ương 2 (Khoá VIII) và Nghị quyết 09 NQ/TU của Tỉnh uỷ (Khoá VI), ngày 22-5-1997 về phát triển sự nghiệp khoa học-công nghệ của tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tỉnh uỷ đề ra 5 mục tiêu và 7 nhiệm vụ cụ thể phát triển khoa học-công nghệ đến năm 2005:

Xác định đúng cơ cấu cây trồng, con nuôi cho từng vùng, đẩy mạnh đưa giống mới vào sản xuất, hình thành vùng nguyên liệu ổn định phục vụ cho công nghiệp chế biến.

Phấn đấu mỗi năm đổi mới 10-15% công nghệ chế biến, mở rộng thị trường tiêu thụ và đảm bảo tiêu thụ phần lớn sản phẩm nông nghiệp của nông dân.

Hoàn thành việc nghiên cứu các chủ trương, giải pháp thiết thực để thực hiện tốt việc định canh, định cư vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Xây dựng tiềm lực khoa học-công nghệ ở địa phương.

Xây dựng đội ngũ trí thức để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh.

Hoạt động khoa học-công nghệ chú trọng đưa các tiến bộ kỹ thuật vào phục vụ sản xuất và đời sống, từng bước đổi mới giống cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ từ đó góp phần tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Những công trình nghiên cứu về khoa học-công nghệ đóng góp đáng kể vào các lĩnh vực bảo vệ môi trường, cải cách hành chính, đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến. Nổi bật trong giai đoạn 1996-2000 có một công trình nghiên cứu khoa học lớn của tỉnh ra đời. Đó là “Bộ Địa chí Lâm Đồng”. Ban Chỉ đạo các chương trình khoa học-xã hội và nhân văn của tỉnh cũng được thành lập theo Quyết định số 612 QĐ/TU ngày 17-10-1998 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ. Ban Chỉ đạo có chức năng tham mưu giúp Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và tổ chức triển khai các chương trình nghiên cứu về khoa học-xã hội và nhân văn trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng nhằm đảm bảo đúng đường lối, chủ trương, chính sách và tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, cung cấp các luận cứ khoa học phục vụ cho yêu cầu xây dựng các nghị quyết, chỉ thị của Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh về các lĩnh vực xã hội-nhân văn. Từ năm 1996 đến năm 1999, Ban chỉ đạo các chương trình khoa học-xã hội và nhân văn đã tham mưu giúp Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo triển khai được 22 đề tài khoa học, nội dung nghiên cứu tập trung trên các lĩnh vực về dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, những vấn đề về đào tạo, sử dụng và phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh...

Ngân sách dành cho sự nghiệp phát triển khoa học-công nghệ của tỉnh hàng năm được Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt từ 1-1,2% trên tổng số ngân sách của tỉnh.

Hệ thống y tế từ tỉnh đến cơ sở không ngừng được củng cố và mở rộng theo hướng hiện đại, đạt chuẩn quốc gia về y tế cơ sở. Đáp ứng yêu cầu cơ bản về khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Đến năm 2000, Lâm Đồng đã có 132/135 xã, phường, thị trấn (gần 97,8%) có trạm y tế; 85/135 xã, phường, thị trấn (gần 63%) có bác sĩ phục vụ, bình quân có 4,5 bác sĩ/1 vạn dân, hàng năm ngành y tế chủ động tiêm phòng đủ 6 loại vắc- xin cho 95% trẻ em toàn tỉnh; nhờ tích cực phòng, chống dịch bệnh nên tỷ lệ người mắc bệnh sốt rét giảm 20- 30%. Nhiều năm liền không có dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn tỉnh. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của tỉnh giảm xuống còn 1,95%.

Trong 15 năm đổi mới, Bưu điện Lâm Đồng là một đơn vị tiêu biểu, từ năm 1986 đến năm 2000, Bưu điện tỉnh đã công nhận 166 lượt người là chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, Tổng cục Bưu điện công nhận 12 lượt người là chiến sĩ thi đua cấp ngành, 12 lượt tập thể, cá nhân được tặng bằng khen của Chính phủ và nhiều bằng khen của Tổng cục Bưu điện, Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Công đoàn Bưu điện Việt Nam, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Liên đoàn lao động tỉnh và các bộ, ban, ngành ở Trung ương và địa phương. Đặc biệt đồng chí Cil Múp Ha K Riêng , công nhận vận chuyển Bưu điện huyện Lạc Dương được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới của ngành Bưu điện.

Trên lĩnh vực hoạt động văn hoá, Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định “các hoạt động văn hoá-văn nghệ có vị trí quan trọng trong việc hình thành nhân cách, làm phong phú đời sống tinh thần con người Việt Nam. Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh cho sự phát triển xã hội”.

Trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới đã tác động không nhỏ vào tình hình trong nước, trong tỉnh. Một số người dao động, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đoạ không được ngăn chặn có hiệu quả... Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VIII) ngày 16-7-1998 đã đề ra Nghị quyết 05 NQ/TW về Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (Khoá VIII) đề ra phương hướng phát triển sự nghiệp văn hoá của nước ta là “phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”[11].

Để thực hiện được những nội dung và phương hướng phát triển văn hoá của nước ta trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội do Đảng đề ra, trên cơ sở nghiêm túc đánh giá những mặt được và chưa được trong quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá của tỉnh, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (Khoá VI) đã ra Nghị quyết 15 NQ/TU ngày 14-11-1998 về Chương trình thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết của Đảng bộ đã thẳng thắn nhìn nhận về công tác xây dựng và phát triển nền văn hoá tại địa phương thời gian qua vẫn còn nhiều tồn tại, khuyết điểm. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn mơ hồ lệch lạc trong nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mất cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Một số phần tử cơ hội, bất mãn chống đối đã lợi dụng những khó khăn, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế- xã hội của đất nước để cấu kết với các thế lực thù địch bên ngoài chống phá, xuyên tạc quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, thậm chí có trường hợp, có tư tưởng và hành động chống lại sự lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc lịch sử, đi ngược lại truyền thống vẻ vang của dân tộc. Trong khi đó kỷ cương pháp luật chưa được thực hiện nghiêm túc, tình trạng vô trách nhiệm, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, giảm sút ý chí chiến đấu còn xảy ra ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Nghiêm trọng hơn là tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu cửa quyền, sách nhiễu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân... vẫn xảy ra. Việc đấu tranh, ngăn ngừa chống các biểu hiện tiêu cực trong nội bộ và ngoài xã hội kết quả còn hạn chế, từ đó đã gây bất bình và làm giảm sút lòng tin của một bộ phận nhân dân đối với Đảng, Nhà nước...

Xuất phát từ thực tế Lâm Đồng là một tỉnh có trên 60% dân số là đồng bào có đạo, trên 20% dân số là người dân tộc thiểu số và trên 30% dân số là đồng bào kinh tế mới, đội ngũ cán bộ và nhân dân từ mọi miền đất nước tập hợp lại, trình độ dân trí không đồng đều, đặc điểm văn hoá, phong tục tập quán có sự khác nhau, mục tiêu để xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là: “Vừa phải xây dựng phát triển nền văn hoá của tỉnh tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam; vừa phải chú trọng giữ gìn, phát huy, xây dựng phát triển một nền văn hoá phong phú, đa dạng, thể hiện được bản sắc văn hoá của từng cộng đồng dân cư và của đồng bào các dân tộc tại chỗ, phù hợp với đặc trưng kinh tế-xã hội của tỉnh. Đồng thời phải trên cơ sở đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế-xã hội, coi đây là động lực cho việc xây dựng và phát triển văn hoá một cách bền vững và đúng hướng. Nghị quyết 15 NQ/TU của Tỉnh uỷ (Khoá VI) đã đề ra 7 chương trình công tác cụ thể để xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá, làm nền tảng cho việc tiếp tục xây dựng và phát triển văn hoá trên địa bàn của tỉnh trong những năm tiếp theo là:

Xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống, trọng tâm là xây dựng con người có lòng yêu nước, yêu quê hương, tin tưởng và ủng hộ sự nghiệp đổi mới của Đảng, có lối sống trong sạch, lành mạnh, giản dị tiết kiệm và khiêm tốn.

Xây dựng môi trường văn hoá, tạo ra ở các đơn vị cơ sở có đời sống văn hoá lành mạnh, trước hết là trong các cơ quan, đơn vị Nhà nước; nội dung xây dựng cơ quan đơn vị cơ sở có đời sống văn hoá gồm:

Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và nếp sống văn minh nơi công cộng. Có ý thức trong việc bảo vệ, tôn tạo và xây dựng cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp.

Xây dựng và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở xã, phường gắn với xây dựng và thực hiện tốt hương ước, quy ước khu dân cư, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ quan.

Đấu tranh ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các loại tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, cờ bạc, bạo lực... và các hoạt động mê tín dị đoan, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh.

Đẩy mạnh phát triển bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; tích cực tham gia chống tham những, buôn lậu, thực hành triệt để tiết kiệm; phát hiện, đấu tranh tố giác với các cơ quan chức năng để kịp thời nghiêm trị, hạn chế đến mức thấp nhất tội phạm, tiến tới loại trừ tội phạm nghiêm trọng.

Xây dựng mối liên hệ giữa các thành viên trong cộng đồng có tinh thần đoàn kết, dân chủ, thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau; phát triển sự nghiệp văn học-nghệ thuật.

Nâng cao chất lượng hoạt động và tăng cường quản lý hệ thống thông tin đại chúng; nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo, y tế, khoa học-công nghệ.

Bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá đi đôi với bảo tồn, phát huy, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số như di chỉ Cát Tiên, các dinh thự, các công trình kiến trúc, các danh lam thắng cảnh, các điểm văn hoá du lịch, các di sản văn hoá của người dân tộc, các di tích lịch sử của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ... giữ gìn và phát triển ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số nhất là các dân tộc có số lượng đông như K’ho, Mạ, Churu...

Xây dựng củng cố thiết chế văn hoá.

Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá; chú ý phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị-xã hội trong xây dựng và phát triển văn hoá; khuyến khích nhân dân lao động trên địa bàn của tỉnh tham gia xây dựng sự nghiệp văn hoá trên cả hai mặt sáng tạo và hưởng thụ.

Yêu cầu của việc xây dựng và phát triển văn hoá trong những năm trước mắt là tạo cho được sự chuyển biến về nhận thức tư tưởng, nhất quán về quan điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các cấp, ngành, đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế-xã hội và trong từng người dân; từ đó xây dựng các chương trình cụ thể để xây dựng và phát triển văn hoá trên địa bàn tỉnh.

Trong hai năm 1999-2000, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp uỷ Đảng, khắp các địa bàn đã triển khai nhiều hoạt động văn hoá, lễ hội truyền thống đậm đà bản sắc trong các cộng đồng dân tộc, dân cư, hạn chế sự xâm nhập của văn hoá phẩm độc hại, bước đầu thực hiện tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Đến tháng 6-2000, toàn tỉnh có 24.000 hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá, xây dựng được 101 câu lạc bộ gia đình văn hoá; có 24 thôn, 3 khu phố, 1 xã và 37 cơ quan, đơn vị đăng ký xây dựng cơ quan, đơn vị văn hoá.

Đảng bộ tiếp tục lãnh đạo giữ vững và củng cố quốc phòng an ninh, kết hợp chặt chẽ quốc phòng với an ninh, kinh tế với quốc phòng và quốc phòng với kinh tế đảm bảo xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh và rộng khắp. Mục tiêu xây dựng cơ quan quân sự, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ của tỉnh đến năm 2000 được Nghị quyết 14 NQ/TU ngày 30-5-1998 của Tỉnh uỷ đề ra là: xây dựng 100% các cơ quan quân sự tỉnh, huyện, thị, thành phố đạt “vững mạnh toàn diện” và 100% số tổ chức đảng trong cơ quan quân sự bộ đội địa phương đạt “trong sạch vững mạnh”. Có 60- 70% cơ quan xã và ban chỉ huy tự vệ đạt “vững mạnh toàn diện”, 50% đơn vị dự bị động viên đạt “vững mạnh toàn diện”.

Để thực hiện các mục tiêu đó, Tỉnh uỷ tích cực chỉ đạo xây dựng Đảng trong lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, xây dựng lực lượng quân đội, công an nhân dân từng bước chính quy hiện đại, tăng cường trang bị phương tiện kỹ thuật chiến đấu, đào tạo nâng cao trình độ, năng lực, nghiệp vụ đảm bảo cho lực lượng vũ trang hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống xảy ra. Quán triệt và thực hiện yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc phòng và giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong thời kỳ phát triển mới của đất nước. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ (Khoá VI) đã ra Chỉ thị 03 CT/TU ngày 16-8-1996 tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng thực lực làm công tác bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở, tạo thế và lực để tăng cường và đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, củng cố toàn diện thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc, đảm bảo giữ gìn tốt an ninh trật tự ngay từ cơ sở góp phần đắc lực vào việc giữ vững ổn định chính trị, tạo điều kiện thúc đẩy sự nghiệp đổi mới trên địa bàn toàn tỉnh phát triển với hiệu quả cao hơn, vững chắc hơn.

Song song với nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giữ vững và củng cố quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, Tỉnh uỷ thường xuyên chú trọng công tác xây dựng, củng cố hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xuất phát từ yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ của địa phương.

 Ngày 18-12-1997, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh họp và ra Nghị quyết số 11 NQ/TU về Chương trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (Khoá VIII). Nghị quyết nêu rõ quan điểm và mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh đến năm 2005 và những năm sau là xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh đảm bảo phát huy thế mạnh, có cơ cấu phù hợp, đủ sức lãnh đạo phát triển toàn diện các vùng, các lĩnh vực. Xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể, sản xuất, kinh doanh, khoa học-kỹ thuật, lực lượng vũ trang các cấp có phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực công tác bảo đảm đủ về số lượng, chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ, trước hết là đối với cán bộ chủ chốt ở các cấp, quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường, thôn, buôn, cán bộ nữ và dân tộc.

Thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ và đề bạt vượt cấp đối với những cán bộ trẻ có trình độ, năng lực điều hành công việc, sâu sát tình hình thực tế, được quần chúng, nhân dân tín nhiệm. Khuyến khích cán bộ công chức giỏi một nghề, hiểu biết nhiều nghề, nhiều lĩnh vực; tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ mới của Lâm Đồng được Tỉnh uỷ xác định đó là những cán bộ am hiểu, sâu sát tình hình thực tế của địa phương và lĩnh vực được phân công công tác; có khả năng điều hành công việc trong thực tiễn, gắn bó lâu dài với địa phương (nếu là một cán bộ được chuyển từ nơi khác đến). Có ý thức chấp hành và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, bảo đảm đủ tiêu chuẩn về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ đối với lĩnh vực công tác được phân công. Có quan điểm, tư tưởng rõ ràng, trung thực, thẳng thắn, cái đúng phải bảo vệ, cái sai phải phê phán. Cán bộ công tác ở vùng sâu, vùng xa cần phải am hiểu về phong tục, tập quán, thậm chí cả tiếng nói của đồng bào dân tộc.

Đi đôi với nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tỉnh uỷ coi nhiệm vụ xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt và là vấn đề cấp bách trong tình hình mới hiện nay.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 lần 2 (Khoá VIII) về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, Ban chấp hành Đảng bộ (Khoá VI) đã ra Nghị quyết 18 NQ/TU ngày 5-8-1999 đề ra 5 nhiệm vụ và giải pháp cụ thể về xây dựng Đảng, trọng tâm là tiếp tục củng cố, xây dựng các tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới, chỉ đạo đổi mới, cải tiến nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ, Đảng bộ và thường xuyên giữ mối liên hệ giữa cấp uỷ cơ quan, doanh nghiệp, lực lượng vũ trang với các tổ chức đảng ở xã, phường, thị trấn, thôn, buôn, khu phố. Thực hiện việc quản lý, đánh giá cán bộ, đảng viên của cơ quan đơn vị đóng trên địa bàn dân cư theo Quy định 535 ngày 5 tháng 5 năm 1998 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ (khoá VI) và Quy định 76 QĐ/TW ngày 5-6-2000 của Bộ Chính trị (Khoá VIII) đã đề ra.

Củng cố, xây dựng chính quyền các cấp thật sự trong sạch vững mạnh, kiện toàn tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp; đồng thời động viên quần chúng tham gia cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thi đua hoàn thành nhiệm vụ kinh tế-xã hội năm 1999 và các năm tiếp theo. Gắn sắp xếp tổ chức bộ máy cán bộ với cải cách thủ tục hành chính và có chế độ, chính sách giải quyết quyền lợi cho cán bộ, công chức, bảo đảm thực hiện yêu cầu tinh giản bộ máy tổ chức, biên chế và nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy trong hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới.

Đến năm 2000, toàn Đảng bộ có 57,97% tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh (so với năm 1996 là 37%), kết nạp được 4.158 đảng viên mới đưa tổng số đảng viên trong toàn tỉnh lên 15.934 đảng viên.

Những kết quả đạt được hết sức quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng (Khoá VI) cũng đã nghiêm túc tiếp thu những yếu kém, khuyết điểm vẫn còn kéo dài trên các lĩnh vực cần nhanh chóng khắc phục trong thời gian tới. Nền kinh tế của tỉnh phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, các chỉ tiêu kinh tế quan trọng. Nhịp độ tăng trưởng các ngành công nghiệp và dịch vụ, kim ngạch xuất khẩu, tổng vốn đầu tư toàn xã hội, huy động GDP vào ngân sách Nhà nước, thu nhập GDP bình quân đầu người không đạt mục tiêu đề ra.

Nông nghiệp phát triển còn nặng tính tự phát, công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp chậm phát triển. Chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học-kỹ thuật vào phục vụ sản xuất và đời sống còn thấp. Cơ chế chính sách chưa thật thông thoáng để thu hút mạnh các nguồn vốn của các thành phần kinh tế vào đầu tư phát triển.

Các lĩnh vực về giáo dục-đào tạo, y tế, kế hoạch hoá gia đình, văn hoá-xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc chưa được đầu tư giải quyết có hiệu quả, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu. Số lao động được đào tạo nghề chiếm tỷ lệ thấp, lao động không có hoặc thiếu việc làm còn nhiều. Tình trạng phân hoá giàu-nghèo trong dân cư ngày càng tăng, mức sống của nhân dân so với mức bình quân của cả nước nhìn chung còn thấp, dân di cư tự do hàng năm không giảm, gây sức ép cho tỉnh trên nhiều mặt.

Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu hoạt động của các thế lực thù địch đối với đất nước và địa phương còn mơ hồ, mất cảnh giác. Công tác xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và xây dựng lực lượng công an tại chỗ ở một số địa bàn chưa thật vững chắc. Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo thiếu kịp thời, còn né tránh, đùn đẩy nên nhiều vụ việc còn dây dưa kéo dài làm tích tụ, phát sinh nhiều phức tạp; việc điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan thực thi pháp luật vẫn còn sai sót.

Hiệu lực quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp còn yếu kém, công tác cải cách thủ tục hành chính tuy được chú trọng nhưng tiến hành chậm, thiếu đồng bộ, kém hiệu quả. Chất lượng lãnh đạo của một số cấp uỷ và tổ chức Đảng chưa cao, có nơi chưa thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc đánh giá, phân tích chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên có lúc, có nơi chưa đúng thực chất.

Công tác bồi dưỡng, bố trí cán bộ chưa theo quy hoạch; tư tưởng cục bộ, bản vị, hẹp hòi trong việc đánh giá bố trí, điều động cán bộ... có lúc có nơi còn xảy ra. Tình trạng hẫng hụt cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo trẻ, cán bộ nữ và cán bộ là người dân tộc thiểu số đang xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên nhân của những yếu kém, khuyết điểm trên, Đảng bộ nhận thấy rằng, do có sự tác động khách quan từ bên ngoài như khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, thiên tai diễn ra trên diện rộng và kéo dài, dân nhập cư tăng quá nhanh làm ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình chung của tỉnh. Mặt khác do nguyên nhân chủ quan từ bên trong Đảng bộ là chính. Năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện trong toàn Đảng bộ còn nhiều yếu kém. Việc cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước có mặt chưa thật cụ thể và sát hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Chỉ đạo tổ chức thực hiện thiếu kiên quyết, chưa kịp thời kiểm tra tình hình tổ chức thực hiện của cấp uỷ cấp dưới; chậm sơ kết, tổng kết để phát huy những nhân tố tích cực, khắc phục những biểu hiện lệch lạc.

Nội dung, phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng còn chậm đổi mới, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng, có lĩnh vực Đảng còn làm thay chức năng nhiệm vụ của Nhà nước và chưa phát huy đúng mức vai trò của các đoàn thể nhân dân. Sự quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp còn nhiều hạn chế.


[1] Đảng cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb ST, Hà Nội, 1991, tr. 9

[2] Đảng cộng sản Việt Nam; S dd, , tr. 139

[3] Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ V. 1991, trang 32.

[4] Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ V. 1991, trang 42

[5] Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ V. 1991, trang 46

[6] Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ V. 1991, trang 46

[7] Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ V. 1991, trang 46

[8] Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ V. 1991, trang 51

[9] Trích Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ V (vòng 2).1991, trang 18

[10] Tháng 6-1998, Bộ Chính trị điều động đồng chí Nguyễn Ánh Minh làm nhiệm vụ khác, đồng chí Nguyễn Hoài Bão được Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ thay đồng chí Nguyễn Ánh Minh

[11] Đảng cộng sản Việt Nam, các Nghị quyết của Trung ương Đảng 1996-1999, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, trang 166- 167.

CHƯƠNG V

LÃNH ĐẠO ĐƯA TỈNH VƯỢT QUA

TÌNH TRẠNG NGHÈO VÀ KÉM PHÁT TRIỂN

VÀO ĐẦU THẾ KỶ XXI

(2001-2005)

 

I. KHÔNG NGỪNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI, GIỮ VỮNG VÀ TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG-AN NINH

Qua 15 năm thực hiện đường lối đổi mới, nước ta đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và lực để thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Đại hội lần thứ IX của Đảng diễn ra trong bối cảnh loài người đã kết thúc thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI, dân tộc ta đứng trước những thời cơ lớn đan xen với nhiều thách thức.

 Đại hội khẳng định: Với những thắng lợi đã giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Về triển vọng trong thế kỷ XXI, Đại hội chỉ rõ: thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi, nhân dân ta có cả cơ hội lớn và thách thức lớn. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới

Trên cơ sở đánh giá khách quan tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế, Đại hội IX đã hoạch định chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 Mục tiêu tổng quát là: đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.

Thực hiện Chỉ thị 54 của Bộ Chính trị về tiến hành đại hội Đảng các cấp, tiến tới đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, từ đầu năm 2000, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng tập trung chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng tổ chức Đại hội và tích cực chuẩn bị cho Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VII.

Từ ngày 15 đến 19-1-2001, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ VII được tiến hành trọng thể tại thành phố Đà Lạt. Dự đại hội có 300 đại biểu thay mặt cho gần 16.000 đảng viên sinh hoạt ở 622 tổ chức cơ sở đảng và 19 đảng bộ trực thuộc. Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2001-2005; Báo cáo công tác xây dựng Đảng, Báo cáo kiểm điểm tình hình và kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Trên cơ sở đánh giá những thành tựu, yếu kém, khuyết điểm trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ VI và 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phân tích những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức, Đại hội đã xác định phương hướng phát triển 5 năm 2001-2005 là: “ Phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để đầu tư, phát triển kinh tế-xã hội, phấn đấu phát triển nông lâm nghiệp bền vững, xây dựng ngành du lịch-dịch vụ sớm trở thành ngành kinh tế động lực của tỉnh, tiếp tục xây dựng mạng lưới công nghiệp, chế biến gắn với vùng nguyên liệu và phát triển một số lĩnh vực công nghiệp có lợi thế. Tập trung đầu tư phát triển các địa bàn kinh tế động lực, các ngành sản xuất có khả năng thu hút nhiều lao động và tạo nguồn thu lớn cho ngân sách; trên cơ sở đó đầu tư trở lại cho các địa bàn chậm phát triển, từng bước rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng, các dân tộc trong tỉnh. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng kinh tế với chăm lo giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị vững chắc từ tỉnh đến cơ sở; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.”[1]

Đại hội thông qua những mục tiêu chủ yếu:

Nhịp độ tăng GDP bình quân hằng năm 11-12%.

GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 5,5-6 triệu đồng.

Giá trị sản xuất tăng bình quân hàng năm: công nghiệp 16-17%, dịch vụ 13-14%, nông nghiệp 10- 11%.

Đến năm 2005, tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp 48%, dịch vụ 31%, công nghiệp 21%.

Tỷ lệ huy động thuế và phí vào ngân sách đạt 9-10% so với GDP.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm 2001-2005 đạt 32% GDP, trong đó, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp 28,5%; dịch vụ 27%; công nghiệp 23% và kết cấu hạ tầng 21,5%.

Tạo việc làm mới hàng năm cho 16.000-18.000 lao động .

Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên còn dưới 1,7% vào năm 2005 .

Cơ bản xoá hộ đói, giảm hộ nghèo xuống dưới 8% vào năm 2005.

Đến năm 2005, có ít nhất 75% số tổ chức cơ sở đảng đạt trong trong sạch vững mạnh; các thôn, buôn đều có đảng viên.

Giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ (Khoá VII) nhiệm kỳ 2001-2005 gồm 44 đồng chí. Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh bầu Ban Thường vụ gồm 10 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Hoài Bão được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ, đồng chí Lê Thanh Phong Phó Bí thư thường trực, đồng chí Phan Thiên làm Phó Bí thư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII là sự kiện chính trị có ý nghĩa quan trọng, khẳng định sự đoàn kết, thống nhất ý chí, quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là tiền đề và cơ sở để vững tin bước vào thế kỷ XXI.

Để Nghị quyết Đại hội sớm đi vào cuộc sống, ngày 6-4-2001, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Chỉ thị số 04-CT/TU về việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VII. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ yêu cầu các huyện, thành, thị uỷ, đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ tổ chức hội nghị phổ biến quán triệt, học tập nội dung các văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh lần thứ VII cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Tiến hành soát xét các mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng bộ, đơn vị mình để điều chỉnh, đảm bảo phù hợp với mục tiêu chung của Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ VII, qua đó xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện có kết quả Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII và của cấp mình, gắn với lãnh đạo đẩy mạnh các phong trào thi đua thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, xây dựng hệ thống chính trị, giữ vững an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn.

Trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhiều khó khăn thử thách, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tương đối toàn diện về phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và xây dựng hệ thống chính trị, trong đó có sự bứt phá mạnh mẽ trên một số lĩnh vực:

Lĩnh vực nông-lâm nghiệp và kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển theo hướng chú trọng ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật để tăng năng suất, chất lượng, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu từng vùng.

Trên cơ sở đánh giá thực trạng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của tỉnh, ngày 18-7-2002, Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 9 đã ra Nghị quyết số 11- NQ/TU về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá IX): “Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010”. Tỉnh uỷ xác định những mục tiêu lớn đến năm 2010 là: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân hàng năm từ 10-11% (giai đoạn 2001-2005) và từ 8-9% (giai đoạn 2005- 2010).

Phấn đấu không ngừng nâng cao giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích canh tác. Ổn định các vùng cây công nghiệp dài ngày với diện tích khoảng 175.000 ha. Nâng cao năng suất và chất lượng cây rau, đẩy mạnh phát triển rau an toàn; tập trung thâm canh tăng năng suất cây lương thực, phấn đấu đạt sản lượng cây lương thực đạt 225.000 tấn vào năm 2010; phát triển chăn nuôi, nâng tỷ trọng chăn nuôi lên trên 15% vào năm 2005 và 25% vào năm 2010 .

Nâng cao tỷ lệ sử dụng cơ giới và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong quá trình sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản sau thu hoạch; phấn đấu đưa tỷ lệ nông sản hàng hoá chủ yếu qua chế biến đến năm 2005 gấp 1,5 lần so với năm 2001.

Tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp. Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, nhất là thuỷ lợi, bưu chính viễn thông, điện và lưới điện, bảo đảm giao thông thông suốt cả trong mùa mưa đến tất cả các xã trong tỉnh. Đến năm 2005 giảm tỉ lệ đói nghèo xuống dưới 8%, riêng vùng đồng bào dân tộc thiểu số dưới 13%, 70% dân số được sử dụng điện, và 60% dân số được dùng nước sạch. Đến hết năm 2003, 100% xã có điện lưới quốc gia, giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh, phát triển nông nghiệp nông thôn gắn liền với giữ vững quốc phòng, an ninh. Để thực hiện được những mục tiêu trên, Tỉnh uỷ thông qua một số nhiệm vụ và giải pháp:

Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao chất lượng hiệu quả nền nông nghiệp.

 Thực hiện các dự án lớn gắn với đầu tư kết cấu hạ tầng, tạo sự phát triển nhanh kinh tế-xã hội ở nông thôn.

Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cho sản xuất, trước hết là về tổ chức sản xuất thị trường tiêu thụ; nghiên cứu về giống, cơ cấu cây trồng, các biện pháp kỹ thuật canh tác hiện đại và phù hợp với điều kiện của địa phương nhằm phục vụ có hiệu quả chương trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng.

 Tập trung giải quyết đất sản xuất cho nông dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số từ quỹ đất đã được chuyển đổi mục đích sử dụng trên cơ sở rà soát lại những hộ thiếu đất, không có đất để xây dựng và thực hiện phương án giải quyết cụ thể. Động viên nhân dân sử dụng quỹ đất hiện có đạt hiệu quả, hạn chế tối đa việc bỏ đất hoang hoá.

Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp. Xây dựng đời sống văn hoá- xã hội và phát triển nguồn nhân lực. Nâng cao chất lượng xây dựng và quản lý quy hoạch, kế hoạch. Phát triển và tích cực tìm kiếm thị trường; thu hút vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân và ưu tiên vốn từ ngân sách nhà nước đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đảng bộ Tỉnh lần thứ VII và Nghị quyết 11 của Tỉnh uỷ, lĩnh vực nông-lâm nghiệp và kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển theo hướng chú trọng ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật để tăng năng suất, chất lượng, chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của từng vùng; tập trung đầu tư thâm canh các vùng cây công nghiệp dài ngày, mở rộng diện tích trồng rau, hoa trong nhà kính và hình thành được một số khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Có trên 8000 ha canh tác đạt doanh thu trên 50 triệu đồng/ha/năm; trong đó một số hộ nông dân sản xuất đạt 150-180 triệu đồng/ ha/ năm. Lĩnh vực lâm nghiệp chủ yếu là trồng rừng kinh tế, khoanh nuôi tái sinh, giao đất giao khoán rừng cho nhân dân quản lý nhằm bảo vệ và phát triển tài nguyên, nâng độ che phủ của rừng từ 63% năm 2000 lên 64% năm 2005. Giá trị sản xuất ngành nông-lâm nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm.

Kinh tế nông thôn đang phát triển theo hướng chuyên môn hoá cây trồng, vật nuôi gắn với kinh doanh tổng hợp, các ngành nghề tiểu-thủ công nghiệp và dịch vụ nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng về đất đai, vốn, lao động, tri thức và kinh nghiệm để phát triển sản xuất kinh doanh; tạo ra các mô hình mới có hiệu quả kinh tế-xã hội ngày càng cao.

Để kinh tế Nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, chi phối được các ngành, các lĩnh vực, sản phẩm then chốt của nền kinh tế, Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 5 đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TU về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ III Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước.

Sau nhiều lần sắp xếp, toàn tỉnh còn 48 doanh nghiệp nhà nước do tỉnh quản lý. Tuy còn nhiều khó khăn nhưng hầu hết các doanh nghiệp đã nỗ lực vươn lên trong sản xuất kinh doanh, ngày càng thể hiện rõ hơn vai trò chủ đạo trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng, góp phần ổn định và phát triển kinh tế-xã hội địa phương, đóng góp đáng kể vào GDP và ngân sách Nhà nước. Hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng thích ứng hơn với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Song, bên cạnh đó vẫn còn nhiều doanh nghiệp lúng túng trong việc xác định phương án sản xuất kinh doanh và chiến lược thị trường; cơ cấu doanh nghiệp chưa hợp lý, quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu; chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, khả năng cạnh tranh yếu, chưa chuẩn bị tốt những điều kiện cần thiết để hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.

Trên cơ sở đánh giá những kết quả và hạn chế, Tỉnh uỷ xác định: Việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước của tỉnh phải phù hợp với quan điểm, mục tiêu của Nghị quyết Trung ương III (Khoá IX) và điều kiện cụ thể tại địa phương, có bước đi phù hợp với tình hình của tỉnh. Xây dựng cơ cấu hợp lý để doanh nghiệp thực sự làm nòng cốt hoặc chi phối các ngành, lĩnh vực quan trọng của tỉnh như lâm nghiệp, chè, cà phê, dịch vụ du lịch, khoáng sản… đồng thời vừa phải đảm bảo tính ổn định của nền kinh tế, vừa tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt động của doanh nghiệp

Để các doanh nghiệp đi vào hoạt động có hiệu quả, tỉnh tiến hành sắp xếp, điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của 13 doanh nghiệp. Đồng thời sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu các loại hình doanh nghiệp, gồm: 7 doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích; 14 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh mà Nhà nước vẫn nắm giữ 100% vốn điều lệ, đến năm 2005 chuyển toàn bộ thành Công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên; 8 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đã và sẽ thực hiện cổ phần hoá nhưng nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt; 7 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá, nhà nước không giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt và giải thể các doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, không có khả năng khắc phục.

Đi đôi với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, một số giải pháp cũng đã được thông qua, đó là: lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp Nhà nước; tăng cường đào tạo, sử dụng hợp lý cán bộ quản lý và nâng cao tay nghề cho người lao động; đảm bảo sự bình đẳng, công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá; đổi mới công tác quản lý nhà nước và tăng cường vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, phát huy quyền làm chủ của các đoàn thể trong doanh nghiệp nhà nước.

Nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp trên nên trong thời kỳ 2001- 2005 thu từ doanh nghiệp Nhà nước chiếm 16,7%. Tuy nhiên, việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước, nhất là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn chậm, chưa khắc phục được tình trạng một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ kéo dài.

Nhằm cụ thể hoá Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 9 đã thảo luận và ra Nghị quyết về Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân.

Trên lĩnh vực kinh tế tập thể, từ khi có Luật Hợp tác xã và Nghị quyết 03-NQ/TU của Tỉnh uỷ (Khoá VI), kinh tế tập thể của tỉnh đã từng bước được củng cố và phát triển, đóng góp vào GDP và ngân sách có chiều hướng tăng, xuất hiện một số mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả về kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, kinh tế tập thể phát triển chậm và thiếu vững chắc, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của địa phương. Hoạt động của các hợp tác xã và tổ hợp tác còn lúng túng, quy mô nhỏ; chất lượng và mẫu mã sản phẩm chưa đáp ứng yêu cầu thị trường nên khả năng cạnh tranh yếu, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp; chưa xây dựng được mô hình hợp lý, có đủ khả năng cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho xã viên, đặc biệt là việc tiêu thụ sản phẩm và tạo nguồn thu chính cho các gia đình xã viên; một bộ phận còn hoạt động cầm chừng hoặc tồn tại mang tính hình thức. Các tổ hợp tác hoạt động lỏng lẻo, thiếu tính pháp lý. Từ những nhận định trên, hội nghị đã xác định một số nhiệm vụ trọng tâm nhằm đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể đến năm 2010.

Trước hết, phải tổ chức học tập, quán triệt thống nhất nhận thức các quan điểm phát triển kinh tế tập thể, hiểu rõ tính tất yếu của kinh tế tập thể trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế hàng hoá; nhận thức rõ tính chất, đặc trưng của mô hình hợp tác xã kiểu mới, xoá bỏ định kiến, hoài nghi đối với kinh tế tập thể; triệt để tôn trọng 5 nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã, không nóng vội, chủ quan, duy ý chí, áp đặt.

Từ những quan điểm trên, Hội nghị đã thông qua một số chính sách nhằm hỗ trợ cho kinh tế tập thể phát triển. Đó là chính sách về đất đai, tài chính-tín dụng, khoa học-công nghệ, tiếp thị và mở rộng thị trường, thực hiện các dự án và đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Tuy đã có sự chỉ đạo chặt chẽ và sự quan tâm của các cấp các ngành, nhưng kinh tế tập thể vẫn phát triển chậm, còn lúng túng cả về quy mô và phương thức hoạt động. Trong 5 năm 2001-2005 tỷ lệ đóng góp vào GDP của thành phần kinh tế tập thể chỉ đạt 2,4%.

Trên lĩnh vực kinh tế tư nhân, nhờ thực hiện tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là từ khi luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành, kinh tế tư nhân đã phát triển nhanh và rộng khắp trong các lĩnh vực, các địa bàn, tạo ra nhiều loại hàng hoá, dịch vụ đa dạng, phong phú. Hàng năm khu vực kinh tế tư nhân chiếm từ 64-70% GDP của tỉnh và đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước, riêng thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 20-22% tổng thu ngân sách trên địa bàn, thu hút khoảng 80% lao động xã hội.

Tuy vậy, kinh tế tư nhân cũng còn nhiều hạn chế. Đại bộ phận có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế còn yếu; doanh nghiệp tư nhân phân bổ trên các lĩnh vực chưa hợp lý, phần lớn tập trung đầu tư vào khu vực dịch vụ và thương mại, ít đầu tư vào khu vực sản xuất, nhất là công nghiệp chế biến… Những tồn tại trên đã hạn chế đến việc khai thác tiềm lực to lớn của thành phần kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội địa phương.

Trên cơ sở đánh giá thành tựu và hạn chế, Hội nghị đã thông qua một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, trong đó chú trọng đến việc thực hiện các cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.

Cùng với đà phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thu hút các thành phần kinh tế đầu tư khai thác thế mạnh của địa phương. Đến năm 2001 toàn tỉnh có 6.269 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; trong đó kinh tế nhà nước 22 đơn vị, kinh tế tập thể 7 đơn vị, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 16 đơn vị; các thành phần kinh tế khác 6224 đơn vị; giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp đạt gần 1.100 tỷ đồng, thu hút trên 28.000 lao động. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển, nhiều ngành hàng đạt trình độ kỹ thuật cao, sản xuất được một số sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Các đơn vị công nghiệp ngoài quốc doanh, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã hình thành và phát triển nhanh, góp phần khai thác tiềm năng và lợi thế về nguyên liệu, vốn và thị trường, tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương.

Nền công nghiệp còn nhỏ bé, phát triển dàn trải, manh múm, chưa hình thành được các ngành và sản phẩm trọng điểm. Tốc độ tăng trưởng còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Chất lượng và mẫu mã hàng hoá chưa theo kịp yêu cầu thị trường, sức cạnh tranh thấp. Năng lực quản trị doanh nghiệp của cán bộ quản lý và trình độ tay nghề của người lao động còn yếu. Các ngành tiểu-thủ công nghiệp còn tự phát và lạc hậu.

Đánh giá khách quan những thành tựu và yếu kém của ngành công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, Nghị quyết Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 10 (Khoá VII) xác định mục tiêu phát triển đến năm 2005 và định hướng đến năm 2010: Phấn đấu đưa tỷ trọng GDP ngành công nghiệp tăng từ 19,2% năm 2000 lên 21% năm 2005 và trên 28% năm 2010 so với GDP toàn tỉnh. Thu hút vốn đầu tư cho công nghiệp đạt 23% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội. Tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt từ 16% đến 20%. Tăng số lao động kỹ thuật tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp lên 30% vào năm 2005 và 60% vào năm 2010; từng bước nâng tỷ lệ thợ bậc cao trong các ngành sản xuất nói chung, ngành công nghiệp nói riêng. Đến năm 2005 có 100% xã, phường, thị trấn có điện và 70% số hộ được dùng điện. Đến năm 2010 có 100% thị trấn, thị xã, thành phố và 80% số dân trong các thị trấn, thị xã, thành phố được sử dụng nước sạch. Các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã ký hợp đồng đầu tư cho sản xuất và tiêu thụ từ 40 đến 50% sản phẩm cho nông dân vào năm 2005 và 75% đến 80% năm 2010.

Trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 10 (Khoá VII), ngành công nghiệp có bước phát triển khá, nhất là công nghiệp khai thác mỏ và công nghiệp sản xuất phân phối điện, nước. Công nghiệp chế biến có bước tăng trưởng về số lượng, quy mô và năng lực sản xuất. Một số ngành công nghiệp được đầu tư dựa trên thế mạnh về nguồn nguyên liệu tại chỗ như chè, tơ tằm, hạt điều, sản xuất vật liệu xây dựng… ngành điện và nước được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng nhiều công trình lớn phục vụ các ngành sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.

Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng bình quân 17,9% năm, tỷ trọng ngành công nghiệp trong GDP của tỉnh năm 2005 chiếm tỷ lệ 15,6%.

Việc xây dựng các khu, cụm công nghiệp, các công trình thuỷ điện thu hút được nhiều dự án đầu tư, mở ra khả năng huy động các nguồn lực phát triển công nghiệp.

Cùng với đà phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, kinh tế du lịch có bước chuyển biến tiến bộ, thu hút các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh đầu tư vào lĩnh vực này, lượng khách, doanh thu, nộp ngân sách, đóng góp vào GDP hàng năm đều tăng, góp phần giải quyết việc làm, khôi phục và phát triển giá trị về văn hoá của các dân tộc trong tỉnh.

Tuy vậy, kinh tế du lịch của tỉnh phát triển chậm, chất lượng và hiệu quả thấp, chưa phát huy được tiềm năng và lợi thế, tạo bước phát triển rõ nét; sản phẩm du lịch đơn điệu, trùng lắp, nghèo nàn; chất lượng các dịch vụ du lịch còn nhiều yếu kém; các điểm danh lam thắng cảnh hầu hết chỉ mới đầu tư ở mức quản lý và khai thác địa danh sẵn có. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp liên doanh đạt thấp; việc liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong, ngoài tỉnh và các thành phần kinh tế khác để khai thác nguồn khách, đặc biệt là khách quốc tế thiếu chủ động.

Đánh giá đúng thực trạng và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên, Nghị quyết Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 5 (Khoá VII) về phát triển du lịch thời kỳ 2001-2005 và định hướng đến năm 2010 xác định phương hướng, mục tiêu chung đến năm 2010 là: Phát triển du lịch theo hướng bền vững trên cơ sở phát triển hài hoà giữa các vùng, ngành kinh tế và các lĩnh vực văn hoá- xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh; đồng thời kết hợp giữa tính hiện đại và tính đặc thù của du lịch Đà Lạt-Lâm Đồng. Phấn đấu đến năm 2010, xây dựng Đà Lạt xứng đáng là một trong những trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng lớn của cả nước, đưa ngành du lịch- dịch vụ thật sự trở thành ngành kinh tế động lực của tỉnh.

Nghị quyết xác định những mục tiêu cụ thể đến năm 2005 là: Tăng cường thu hút khách du lịch, phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm về khách du lịch từ 14-15% để đến năm 2005 thu hút từ 1,2-1,4 triệu lượt khách (trong đó có 200.000 đến 250.000 lượt khách quốc tế).

Huy động mọi nguồn lực đẩy nhanh tốc độ triển khai các dự án lớn đã được quy hoạch và phê duyệt; nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ du lịch hiện có, phát triển các sản phẩm mới. Phấn đấu đến năm 2005 đưa thời gian lưu trú bình quân đạt hơn 2,5 ngày, tăng tỷ trọng GDP của ngành du lịch gấp 2 lần so với năm 2000.

Tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và trách nhiệm của các ngành, các cấp đối với phát triển du lịch. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tăng cường củng cố bộ máy tổ chức và công tác cán bộ trong các cơ quan quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch và đội ngũ cán bộ quản lý các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh du lịch.

Nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp nên từ năm 2001 đến năm 2005 hoạt động kinh doanh du lịch có bước phát triển mạnh. Các danh lam thắng cảnh được quy hoạch, xác định ranh giới và từng bước tôn tạo, nâng cấp; nhiều khu du lịch mới đã được các nhà đầu tư trong và ngoài nước xây dựng, tạo thêm sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách.

Hệ thống nhà nghỉ, khách sạn được phân hạng có sức chứa khoảng 30.000 khách, chất lượng kinh doanh được nâng lên. Lượng khách du lịch tăng bình quân 14%/năm.

Trong 5 năm (2001-2005), giá trị ngành dịch vụ tăng bình quân 14,0%/năm. Tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP năm 2005 đạt 30,6%. Một số lĩnh vực tăng khá như: Xuất nhập khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm đạt 381,5 triệu USD, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 19,2%. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu như cà phê, điều, rau, hoa, tơ tằm… đạt khá.

Tổng kim ngạch nhập khẩu trong 5 năm đạt 120 triệu USD, tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt 11,8%. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị và nguyên vật liệu.

Đến năm 2005 có 144/145 xã, phường, thị trấn đã có điện lưới quốc gia phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. Bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, tỉnh đã đầu tư xây dựng, mở rộng lưới điện trung thế, hạ thế từ trung tâm huyện, thị xã, thành phố đến các xã vùng sâu vùng xa; đặc biệt là triển khai xây dựng mạng điện nhánh rẽ phục vụ cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Lĩnh vực thông tin liên lạc, mạng lưới bưu chính viễn thông được tập trung đầu tư phát triển, hiện đại hoá và áp dụng công nghệ thông tin hiện đại. đến năm 2005, hệ thống các bưu điện, bưu cục đã phủ kín địa bàn toàn tỉnh, hệ thống điện thoại đã đến 144/145 xã, phường, thị trấn, đáp ứng được yêu cầu thông tin liên lạc của nhân dân, bình quân có 14,74 máy/100 dân.

Về thu chi ngân sách: Huy động GDP vào ngân sách Nhà nước trong thời kỳ 2001-2005 đạt tỷ lệ 15,4%, thu thuế và phí đạt 10%. Tốc độ tăng thu bình quân hàng năm đạt 22,9%, trong đó thuế và phí tăng bình quân 20,7%/năm. Đạt được những kết quả nêu trên có sự đóng góp của cục thuế tỉnh, là đơn vị được thành lập vào tháng 10-1980, trải qua 10 năm thực hiện công cuộc cải cách thuế bước I, Cục thuế Lâm Đồng đã trưởng thành vượt bậc cả về năng lực chuyên môn và đội ngũ cán bộ công chức thuế không những được đào tạo từ trường lớp, mà còn luôn được quan tâm bồi dưỡng kiến thức nâng cao trình độ nghiệp vụ, trau dồi đạo đức nghề nghiệp, cơ sở vật chất được cải thiện, điều kiện làm việc ngày càng tốt hơn, công nghệ tin học từng bước được áp dụng phục vụ cho công tác quản lý. Chính nhờ sự chuyển biến về năng lực, kiến thức của cán bộ công chức và điều kiện làm việc được hoàn thiện. Cục thuế tỉnh Lâm Đồng vững tin tiến hành cải cách thuế bước II (1999-2005).

Cùng với việc triển khai thực hiện thắng lợi các Luật thuế mới trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, cải tiến biện pháp quản lý, đổi mới công tác thu thuế đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Nhất là năm đầu tiên bước vào thế kỷ 21, năm 2000 đã có bước tăng trưởng khá trong thu ngân sách nhà nước (dự toán 380 tỷ, thực hiện 408 tỷ đồng); năm 2001 dự toán 410 tỷ, thực hiện 417 tỷ đồng; năm 2002 dự toán 451 tỷ đồng, thực hiện 483 tỷ đồng. Với thành tích đó, ngành thuế Lâm Đồng vinh dự đón nhận Huân chương lao động hạng nhì do Nhà nước trao tặng; năm 2003 tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 623ty3 đồng vượt 28% so năm trước. Đặc biệt trong năm 2004 tổng thu ngân sách đạt 903 tỷ đồng bằng 140% so với năm 2003, đạt và vượt cao dự toán trung ương và địa phương giao.

Năm 2005 là năm cuối thực hiện nhiệm vụ 5 năm (2001-2005), cũng là năm ngành thuế Lâm Đồng vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2005 đạt 1.167 tỷ đồng, tăng gấp 2,88 lần so với năm 2000. Trong tổng thu ngân sách nhà nước thời kỳ 2001-2005, thu từ doanh nghiệp nhà nước chiếm 16,7%, thu từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 23,9%, thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 2,3%, thu từ đất nhà chiếm 14,9%, các khoản thu khác chiếm 42,2%.

Tổng chi ngân sách địa phương thời kỳ 2001-2005 tăng bình quân 23,8%/năm, trong đó chi xây dựng cơ bản chiếm 33,7%, chi thường xuyên chiếm 51,7%.

Nhìn chung, nguồn thu ngân sách Nhà nước của tỉnh tăng khá, tuy nhiên nhu cầu chi của xã hội tăng nhanh làm cho ngân sách địa phương luôn khó khăn, tích luỹ từ nội bộ nên kinh tế chưa đủ chi cho nhu cầu phát triển. Vì vậy, hàng năm Trung ương phải trợ cấp ngân sách cho địa phương từ 30-35% tổng thu ngân sách địa phương.

Nhằm cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng về lĩnh vực văn hoá xã hội thời kỳ 2000-2005, Tỉnh uỷ ban hành Nghị quyết về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; về đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao và bảo trợ xã hội và kế hoạch thực hiện kết luận của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá IX ) về giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ đến năm 2010. Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực có ý nghĩa quan trọng, góp phần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở địa phương.

 Sự nghiệp giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Mạng lưới các cấp học, ngành học được quan tâm đầu tư và bố trí tương đối hợp lý theo phân bố dân cư. Số lượng các cấp đều tăng khá, tỷ lệ học sinh bỏ lớp giảm. chất lượng giáo dục ngày càng được nâng lên, tỷ lệ học sinh hết cấp, học sinh khá giỏi hàng năm đều tăng. Thành quả chống tái mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học được tiếp tục củng cố vững chắc; phổ cập trung học cơ sở đang được triển khai, đến năm 2005 thành phố Đà Lạt, thị xã Bảo Lộc và 80 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở.

Công tác xã hội hoá giáo dục, đa dạng hoá trường lớp, phát triển mạnh mẽ đã mang lại một số kết quả thiết thực, toàn xã hội quan tâm chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục, nhất là trên lĩnh vực xây dựng cơ sở vật chất. Đến năm 2005, toàn tỉnh có 561 trường phổ thông, trong đó tiểu học có 253 trường, trung học cơ sở có 111 trường, trung học phổ thông có 44 trường, mầm non có 130 trường, 6 trường dân tộc nội trú. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý từng bước đáp ứng nhu cầu về số lượng và tiêu chuẩn hoá về chất lượng.

Ngành giáo dục vẫn còn những khuyết điểm, hạn chế: Cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị dạy học còn thiếu thốn, tỷ lệ trường lớp đạt chuẩn quốc gia thấp; chất lượng giáo dục toàn diện nhìn chung còn hạn chế, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; tiến độ phổ cập trung học cơ sở còn chậm; cơ cấu đào tạo và dạy nghề chưa đáp ứng nhu cầu của xã hội; tình trạng dạy thêm học thêm chưa được quản lý chặt chẽ, còn nhiều biểu hiện tiêu cực.

Hệ thống y tế từ tỉnh đến cơ sở được nâng cấp và xây dựng mới, cơ bản đáp ứng nhu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Năm 2005, toàn tỉnh có 181 cơ sở y tế, trong đó có 12 bệnh viện, 21 phòng khám đa khoa khu vực; 140/145 số xã, phường, thị trấn có trạm y tế, 96/145 số xã, phường, thị trấn có bác sĩ phục vụ, 82,4% thôn, buôn có nhân viên y tế.

Các chương trình y tế được triển khai thực hiện có hiệu quả, chủ động phòng chống không để dịch lớn xảy ra, bệnh sốt rét được đẩy lùi và kiểm soát, 95% trẻ em được tiêm phòng đầy đủ 6 loại vắcxin. Đẩy mạnh hoạt động truyền thông phòng chống lao và các bệnh xã hội, HIV/AIDS… đến năm 2005, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn 24,7%.

Vấn đề đáng quan tâm của ngành y tế là trang thiết bị, trình độ cán bộ của mạng lưới y tế không đồng đều nên chất lượng khám, chữa bệnh chưa đáp ứng ngày càng cao và đa dạng của nhân dân; tinh thần, thái độ phục vụ bệnh nhân của một bộ phận cán bộ ngành y chưa cao. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và bà mẹ có thai vẫn còn cao. Hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực dược phẩm, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm chưa cao.

Hoạt động văn hoá thông tin, văn học nghệ thuật, báo chí, phát thanh truyền hình có tiến bộ đáng kể, từng bước đổi mới về nội dung, hình thức, lượng thông tin ngày càng phong phú hơn góp phần nâng cao đời sống tinh thần các tầng lớp nhân dân và tuyên truyền phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đến cuối năm 2005, 11 huyện, thị xã, thành phố có đài phát thanh truyền hình, đã phủ song phát thanh truyền hình trên 85% diện tích toàn tỉnh; có 85% số hộ được xem truyền hình, 80% số hộ được nghe đài phát thanh.

Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá VIII) và Nghị quyết 15 của Tỉnh uỷ (Khoá VI) “Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, nhận thức của phần lớn cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò của văn hoá đối với đời sống xã hội ngày càng được nâng lên. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành đã xác định rõ hơn, cụ thể hơn nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hoá. Đạo đức và lối sống xã hội đã có tiến bộ trên nhiều mặt, nhiều giá trị văn hoá, phẩm chất đạo đức mới được nhân dân đề cao, hưởng ứng và tham gia tích cực, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội. củng cố quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Những chuẩn mực giá trị xã hội và các giá trị về văn hoá đã và đang được khơi dậy và ngày càng khẳng định như hướng về cội nguồn; tôn vinh tài năng, sở trường, năng lực cá nhân được khuyến khích đúng mức, từng bước tạo nên đời sống tinh thần cao đẹp cho mọi nhà, mọi người trước những thách thức gay gắt của mặt trái kinh tế thị trường.

Nhận thức về văn hoá được nâng lên nên nhân dân đã tích cực và tự giác tham gia cuộc vận động “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động văn hoá, làm cho văn hoá trở thành sự nghiệp rộng lớn của toàn xã hội. Đến năm 2005, toàn tỉnh có 33 thôn, khu phố đạt chuẩn văn hoá; có trên 76.000 hộ đạt danh hiệu gia đình văn hoá.

Hoạt động văn học-nghệ thuật có nhiều thiết thực; phong trào sáng tác văn học nghệ thuật phát triển đúng hướng. Hoạt động thông tin báo chí ngày càng mở rộng, chất lượng và hiệu quả của thông tin báo chí từng bước được nâng lên, góp phần đáng kể vào việc thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.

Công tác bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số được quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu, sưu tầm, điều tra di sản văn hoá các dân tộc bản địa được tiến hành. Một số đề án, chương trình bảo tồn, phát huy văn hoá dân tộc thiểu số được triển khai.

 Sau một thời gian thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (Khoá VI), Quyết định 72 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Về phát triển kinh tế-xã hội miền núi, Chỉ thị số 25-CT/TU ngày 5-9-1994 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về tiếp tục đầu tư xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc, tình hình kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh đã có nhiều chuyển biến đáng kể, nhưng vẫn chưa đạt được các mục tiêu đề ra.

Trước âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, tình hình Tây Nguyên có nhiều diễn biến phức tạp, ngày 20-11-2001, Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 5 (Khoá VII) ra Nghị quyết số 02-NQ/TU về tiếp tục đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thời kỳ 2001-2005. Mục tiêu tổng quát là: Làm chuyển biến mạnh mẽ và đồng bộ về tư tưởng, nhận thức, nâng cao dân trí, ý thức tự lực tự cường của đồng bào dân tộc thiểu số, phát triển kinh tế-xã hội; xoá cơ bản số hộ nghèo, từng bước ổn định và cải thiện đời sống, tăng số hộ giàu, xây dựng thực hiện chính trị vững mạnh, giữ vững ổn định, quốc phòng, an ninh.

Nghị quyết xác định những mục tiêu cụ thể đến năm 2005:  

Cơ bản xoá hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn 13-15% so với tổng số hộ dân tộc trung tỉnh.

Bảo đảm giao thông liên lạc thông suốt đến các xã, kể cả trong mùa mưa; đưa điện lưới quốc gia đến trung tâm các xã, trên 50% số hộ được dùng nước sạch.

80% số xã có bác sĩ,100% số buôn, thôn có nhân viên y tế.

Tất cả các xã đều có trường trung học cơ sở, ở liên xã và trung tâm cụm xã có trường trung học phổ thông và hình thành cơ bản thiết chế văn hoá ở cơ sở.

100% thôn, buôn có đảng viên.

Ở cấp tỉnh và huyện có từ 5-10% cán bộ là người dân tộc thiểu số, từ 20-25% giáo viên tiểu học, nhân viên y tế ở các thôn, buôn là người dân tộc tại chỗ.

Giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh trong vùng đồng bào dân tộc.

Để thực hiện được các mục tiêu trên, Nghị quyết nêu lên một số nhiệm vụ và giải pháp về sản xuất nông-lâm nghiệp; công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ; xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; vốn phát triển sản xuất; đầu tư cho từng nhóm, xã, thôn, buôn; giáo dục, y tế, văn hoá-xã hội, thể dục-thể thao; quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội ở cơ sở; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, tăng cường sự lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ dân tộc.

Quán triệt Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 18-01-2002 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010, ngày 29-01-2002 Tỉnh uỷ ra Chỉ thị số 09 về việc triển khai Nghị quyết số 10-NQ/TW. Thông qua việc tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết nhằm làm chuyển biến mạnh mẽ, đồng bộ về tư tưởng, nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh; đồng thời bổ sung, điều chỉnh Chương trình thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TU về tiếp tục đầu tư phát triển vùng đồng bào các dân tộc.

Trong quá trình thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, việc thực hiện các chương trình kinh tế-xã hội như: chương trình xây dựng vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chương trình kiên cố hoá kênh mương; kiên cố hoá đường giao thông nông thôn; kiên cố hoá trường học; chính sách khám chữa bệnh người nghèo và chính sách giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cũng đạt được những kết quả đáng kể. Đặc biệt, trong chương trình xây dựng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tỉnh đã đầu tư 277 tỷ đồng thực hiện các chương trình lớn. Chương trình 135, đầu tư trên 126 tỷ đồng ở 49 xã, đã thực hiện được một số hạng mục quan trọng: 536 km đường giao thông nông thôn,307 phòng học, 7 trạm y tế, 87 km đường điện hạ thế, 27 công trình thuỷ lợi nhỏ, 8 chợ, 6 công trình cấp nước sạch sinh hoạt.

Việc thực hiện chương trình 135 đúng mục đích, đối tượng, được nhân dân đồng tình ủng hộ, bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi, góp phần xoá đói giảm nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn và giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Toàn tỉnh có 8 trung tâm cụm xã được đầu tư với số vốn trên 53 tỷ đồng, nhiều hạng mục công trình được xây dựng đã thay đổi bộ mặt nông thôn, tạo ra được nơi giao lưu hàng hoá, thuận lợi cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Thực hiện Quyết định 132/2002/QĐ-TTg ngày 8-10-2002 và Quyết định 134/2004/QĐ-TTg ngày 20-7-2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ. Đến cuối năm 2005 đã đầu tư trên 30 tỷ đồng khai hoang được 6.728 ha giao cho 7.948 hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ thiếu đất sản xuất.

Đầu tư trên 41 tỷ đồng để hỗ trợ xây dựng 7.182 căn nhà, bình quân mỗi căn nhà hỗ trợ từ 5-6 triệu đồng; ngoài ra chương trình làm nhà ở tình thương cho đồng bào dân tộc thiểu số, các hộ nghèo đặc biệt khó khăn được mọi tầng lớp nhân dân ủng hộ, các cấp, các ngành quan tâm thực hiện, giảm bớt khó khăn về nhà ở cho đồng bào dân tộc thiểu số, công tác định canh định cư ngày càng ổn định, thôn buôn được khang trang hơn.

Thực hiện đề án phát triển điện nông thôn, chương trình hỗ trợ vay vốn mắc điện nhánh rẽ vào nhà các đối tượng chính sách, hộ nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số, tỉnh bố trí trên 21 tỷ đồng để đầu tư đường dây nhánh rẽ từ lưới điện vào nhà, bình quân hỗ trợ cho mỗi hộ khoảng 600.000 đồng. Nhìn chung, các chương trình đã thực hiện theo đúng yêu cầu, nội dung và mục đích đề ra. Các chương trình dự án đã từng bước phát huy hiệu quả, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Trong 5 năm 2001-2005, tổ chức đảng, chính quyền các cấp đã tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội gắn với bảo đảm an ninh-quốc phòng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao cảnh giác cách mạng trong các tầng lớp nhân dân về âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Thông qua phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc đã kịp thời phát hiện và ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động phá hoại và đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm. Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh được tăng cường. Cùng với việc củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức thanh tra nhân dân các cấp, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở bước đầu phát huy quyền làm chủ của nhân dân để tham gia quản lý xã hội trên lĩnh vực quốc phòng,an ninh; tranh chấp khiếu kiện trong nhân dân được quan tâm giải quyết.

Trước tình hình các tỉnh Tây Nguyên có những diễn biến phức tạp về an ninh chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến tỉnh Lâm Đồng, các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ an ninh-quốc phòng. Xây dựng lực lượng quân đội và công an nhân dân vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và trình độ chuyên môn cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới; đồng thời xây dựng thực lực cách mạng tại chỗ, phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân… kịp thời phát hiện và ngăn chặn, đẩy lùi các hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, kiềm chế sự gia tăng của các loại tội phạm, tệ nạn, tai nạn xã hội… Giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra bạo loạn chính trị, biểu tình, gây rối bạo loạn trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Sau 5 năm không ngừng phát triển kinh tế xã hội, nhiều địa phương đã đạt được những thành tích đáng trân trọng, tiêu biểu là huyện Di Linh từ 2001-2005, thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XI, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch đúng hướng, tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm đạt 16,3 %, thu nhập bình quân đầu người 6,2 triệu đồng, đạt 85 %. Tỷ trọng ngành nông-lâm nghiệp 69%, công nghiệp xây dựng 10,6%; thương mại, dịch vụ 20,4%, cơ cấu kinh tế nông nghiệp có sự chuyển biến tích cực theo hướng thâm canh, đã chuyển đổi 1.913 ha cây cà phê năng suất thấp sang trồng mới 601 ha chè, 681 ha dâu tằm, 711 ha cây ăn trái, 12 ha đồng cỏ, sản lượng chè, cà phê nhân năm 2005 đạt 65000 tấn, tăng bình quân 0,7% năm. Trên cơ sở những thành tích đã đạt được, năm 2002 Tập thể cán bộ nhân dân xã Tân Châu, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới.

II. XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH

Công tác xây dựng Đảng, thực hiện các Nghị quyết của Đảng và cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII, Tỉnh uỷ ra Nghị quyết số 16 về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới; Kế hoạch số 09 thực hiện kết luận của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (Khoá IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (Khoá VII) và Nghị quyết Trung ương 3 (Khoá VIII) về công tác tổ chức cán bộ; Kế hoạch số 11 về kiểm điểm tự phê bình, phê bình gắn với đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên và đánh giá cán bộ; Kế hoạch về kiểm tra việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện Quy định 55 của Bộ Chính trị (Khoá VII) về những điều đảng viên không được làm; Kế hoạch về việc xây dựng tổ chức Đảng trong cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp và lực lượng vũ trang.

Trước tình hình các thế lực thù địch bên ngoài cấu kết với bọn phản động, cơ hội trong nước lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo và những yếu kém của ta để chống phá cách mạng. Trong bối cảnh đó, Đảng bộ đã tập trung thực hiện tốt công tác chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, tạo sự thống nhất tư tưởng trên những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới. Cấp uỷ Đảng, Uỷ ban nhân dân các cấp, Mặt trận và các đoàn thể các cấp đã tập trung thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, tổ chức tốt các ngày kỷ niệm, các sự kiện lớn của đất nước và của tỉnh, qua đó phát huy truyền thống yêu nước và khí thế cách mạng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng có nhiều tiến bộ. Tính đến 31-12-2004 toàn tỉnh có 701 tổ chức cơ sở đảng, tăng 79 tổ chức cơ sở đảng so với đầu nhiệm kỳ, có 20.567 đảng viên, chiếm 1,8% dân số, tăng 4.586 đảng viên so với đầu nhiệm kỳ. Đảng viên là nữ có 5.066 người, chiếm 24,6%; đảng viên là người dân tộc thiểu số có 1.847 người, chiếm 9%; đảng viên là người theo các tôn giáo có 873 người, chiếm 4,2%.

Chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được nâng lên đáng kể. Năm 2004, tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh là 71,29%, tăng 19,71%; tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng yếu kém là 1,9%, giảm 3% so với năm 2000; đảng viên đạt loại xuất sắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 69,6%, hoàn thành nhiệm vụ đạt 29,5%. Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên hàng năm được nâng lên. Đến cuối năm 2005 có 68% cán bộ, đảng viên tốt nghiệp Trung học phổ thông, 48,07 có trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học, 4,49% có trình độ cử nhân hoặc cao cấp lý luận chính trị.

Công tác cán bộ có nhiều chuyển biến tích cực. Cấp uỷ các cấp tập trung thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ, đảm bảo được cơ cấu, độ tuổi và số lượng theo yêu cầu; nhiều cấp, nhiều ngành có những đổi mới trong quy hoạch cán bộ, mở rộng đối tượng cán bộ quy hoạch ra ngoài phạm vi cơ quan quản lý. Đội ngũ cán bộ công chức, viên chức các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị trong tỉnh đã có bước tiến bộ cả về phẩm chất chính trị, trình độ kiến thức, năng lực công tác và ý thức trách nhiệm trong công việc.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được các cấp uỷ, chính quyền quan tâm. Từ năm 2000 đến năm 2004 toàn tỉnh đã đào tạo, bồi dưỡng gần 10.000 người, trong đó lý luận chính trị 1.997 người, quản lý nhà nước 706 người, ngoại ngữ 436 người, tin học 348 người, kiến thức quốc phòng 704 người.

Về công tác kiểm tra, các cấp uỷ, tổ chức đảng có nhiều tiến bộ trong thực hiện công tác kiểm tra và xử lý vi phạm. Trong nhiệm kỳ, các cấp uỷ đã thực hiện được 2.120 cuộc kiểm tra, Uỷ ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra được 580 lượt đảng viên có dấu hiệu vi phạm; giải quyết 602 đơn thư tố cáo tổ chức đảng và 24 đơn khiếu nại về thi hành kỷ luật Đảng. Thi hành kỷ luật 818 đảng viên, chiếm 3,98% tổng số đảng viên toàn tỉnh, thi hành kỷ luật 12 tổ chức đảng. Nội dung vi phạm chủ yếu là nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ sinh hoạt , mất đoàn kết nội bộ, thiếu tinh thần trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, lợi dụng chức quyền thu lợi cho cá nhân.

Các cấp uỷ đảng đều nhận thức sâu sắc và quan tâm chăm lo xây dựng chính quyền các cấp trong sạch vững mạnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Quan tâm củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp theo hướng tinh gọn, vững mạnh, thực hiện phân cấp mạnh cho cấp dưới, cho cơ sở.

Hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp có nhiều đổi mới, chất lượng các kỳ họp và vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân ngày càng tiến bộ; triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Nghị quyết Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 9 (Khoá VII) về chương trình thực hiện Nghị quyết số 17 NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (Khoá IX): “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở xã, phường,thị trấn” đã được cấp uỷ, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể các cấp triển khai thực hiện. Chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở có nhiều chuyển biến tích cực, dân chủ ở cơ sở được phát huy, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, phát triển kinh tế- xã hội, giữ vững an ninh trật tự xã hội ở địa phương và cơ sở.

Đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn phần đông giữ được phẩm chất, đạo đức cách mạng; trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và quản lý nhà nước được nâng lên. Tuổi đời bình quân của cán bộ được trẻ hoá một bước.

Thực hiện Chỉ thị số 33 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện cải cách hành chính, các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị trong tỉnh tập trung triển khai thực hiện, bước đầu đã có những chuyển biến tích cực. Tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính, sự nghiệp trong tỉnh cơ bản được sắp xếp, kiện toàn và từng bước đi vào hoạt động có hiệu quả. Việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” ở một số sở, ngành, địa phương bước đầu hạn chế được những phiền hà, nhũng nhiễu, ách tắc trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Công tác cải cách thủ tục hành chính có bước đổi mới tích cực, tập trung vào những khâu dễ phát sinh tiêu cực, gây phiền hà cho người dân, ảnh hưởng đến việc khuyến khích, thu hút đầu tư. Việc quản lý và thực hiện chế độ trách nhiệm theo Pháp lệnh và các quy định của công chức, viên chức từng bước được nâng lên.

Nhằm nâng cao vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, Tỉnh uỷ Lâm Đồng đã ban hành các Nghị quyết số 18, 19, 20 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; về công tác dân tộc và về công tác tôn giáo; Chỉ thị số 10 về tổ chức thực hiện Nghị quyết số 10 về tổ chức thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Cựu chiến binh trong giai đoạn cách mạng mới; Chỉ thị số 11 về lãnh đạo thực hiện “chương trình hành động về sự tiến bộ của phụ nữ”

Trong 5 năm 2001-2005, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân các cấp đã quan tâm chỉ đạo và tổ chức các phong trào hành động cách mạng theo hướng xã hội hoá, tạo được sự đồng tình, hưởng ứng của đông đảo các tầng lớp nhân dân, như các phong trào xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư… Các phong trào đã bám sát vào nhiệm vụ chính trị của địa phương; dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy, nhất là việc bảo đảm quyền của nhân dân tham gia phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng an ninh. Quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân được tôn trọng; hoạt động của tôn giáo nhìn chung phù hợp với pháp luật, khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng được tăng cường.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân vẫn còn những khuyết điểm, yếu kém:

Công tác tư tưởng chưa nắm bắt kịp thời yêu cầu thực tiễn đặt ra, nội dung còn giản đơn, phương pháp chưa linh hoạt; việc rèn luyện, giáo dục tư tưởng, chính trị cho cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên.

Việc chấp hành nguyên tắc, kỷ cương, pháp luật của Đảng và Nhà nước ở một số cấp uỷ, tổ chức cơ sở Đảng không nghiêm; ý thức trách nhiệm, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên chưa cao. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi còn biểu hiện hình thức. Công tác xây dựng tổ chức đảng trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân còn lúng túng.

Việc chỉ đạo và thực hiện công tác kiểm tra của một số cấp uỷ chưa thường xuyên, có lúc có nơi còn nặng về hình thức, phát hiện sự việc chậm, xử lý không kịp thời, thiếu kiên quyết. Một số nơi chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, ngành nên hiệu quả kiểm tra chưa cao.

Hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp chưa đồng đều, chưa sâu sát, nhiều nơi còn hạn chế trong việc kiểm tra thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước; kỷ cương pháp luật chưa nghiêm, hiệu quả, hiệu lực điều hành, tính thống nhất chưa cao, nhất là ở cơ sở. Thực hiện cải cách thủ tục hành chính nhiều nơi còn chậm, chưa đồng bộ. Một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu kém cả về chuyên môn và phẩm chất đạo đức, chưa thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Sự phối hợp hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân với các cấp, ngành, đơn vị có liên quan thiếu chủ động, chưa đồng bộ. Chưa tạo được sức mạnh tổng hợp trong việc vận động nhân dân tham gia phát triển kinh tế- xã hội và giải quyết những vấn đề trọng tâm, bức xúc trong tổ chức sản xuất, xây dựng cuộc sống. Việc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở chưa thực sự được chú trọng, quyền làm chủ của nhân dân nhiều nơi còn hình thức; tính hành chính, hình thức trong hoạt động chưa được khắc phục có hiệu quả.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Nghị quyết Đại hội VII Đảng bộ Tỉnh, Đảng bộ Lâm Đồng đã vận dụng các cơ chế,chính sách của Trung ương phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi để phát huy năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế, thu hút nhiều dự án đầu tư. Tổ chức thực hiện có kết quả các chương trình trọng tâm, công trình trọng điểm, đặc biệt là các dự án trên lĩnh vực giao thông, thuỷ lợi, thuỷ điện… xây dựng và tạo được nhiều mô hình sản xuất tốt, mang lại hiệu quả kinh tế cao, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 10,7% đã tạo được thế và lực, mở ra khả năng phát triển đột phá trong những năm tiếp theo.

Cùng với sự phát triển kinh tế, bộ mặt đô thị, nông thôn có nhiều khởi sắc, các lĩnh vực văn hoá- xã hội cũng có nhiều chuyển biến tiến bộ; đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân không ngừng được nâng lên, kể cả vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng, an ninh.

Công tác xây dựng Đảng có bước đổi mới trong tư duy và phương thức hoạt động, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất và toàn diện; phát huy được vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân, sự chủ động trong điều hành của Uỷ ban nhân dân và vai trò của Mặt trận và các đoàn thể. Đội ngũ cán bộ, công chức,viên chức ngày càng trưởng thành, cơ bản đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị.

Tuy đạt được những thành tích rất cơ bản, nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều mặt cần phải khắc phục như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh của địa phương, GDP đầu người thấp; cơ cấu kinh tế chưa chuyển được theo hướng dịch vụ; sản xuất công nghiệp còn nhỏ bé, dịch vụ phát triển chậm; khả năng cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường thấp. Xã hội hoá các lĩnh vực văn hoá- xã hội còn chậm; một số vấn đề bức xúc trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá chưa được đầu tư giải quyết kịp thời. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, còn tiềm ẩn một số nhân tố có khả năng gây mất ổn định chính trị cục bộ. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ nhìn chung chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. năng lực quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền, nhất là ở cơ sở còn hạn chế; ý thức tổ chức kỷ luật ở một số cấp, ngành, đơn vị và một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa cao.


[1] Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ VII. 2001, trang 22

KẾT LUẬN

 

Ba mươi năm kể từ ngày quê hương được giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Lâm Đồng đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, giành được những thành tựu cực kỳ quan trọng. Đó là một chặng đường phấn đấu, xây dựng, hoạt động, trưởng thành đầy gian khổ, hy sinh của các thế hệ cách mạng và nhân dân, góp phần tô đậm thêm những trang sử vẻ vang của Đảng, của dân tộc.

Chặng đường mười năm 1975-1985, là giai đoạn đầu xây dựng đất nước, với nhiều khó khăn và thách thức mới, vừa thoát khỏi hai cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và ác liệt, lực lượng cán bộ, đảng viên rất mỏng, chưa có kinh nghiệm, năng lực và trình độ lãnh đạo xây dựng kinh tế, quản lý xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, thiếu thốn về cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như hạ tầng cơ sở. Tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội phức tạp, rối ren. Nhưng Đảng bộ Lâm Đồng đã lãnh đạo nhân dân không ngừng phát huy truyền thống cách mạng, tự lực tự cường, nhanh chóng thiết lập, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng; khắc phục hậu quả chiến tranh, đấu tranh trấn áp các tổ chức phản động; từng bước ổn định đời sống nhân dân.

 Thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ IV của Đảng (12-1976), Đảng bộ Lâm Đồng đã đề ra chủ trương, kế hoạch củng cố hệ thống chính quyền, xây dựng lực lượng cách mạng, khôi phục kinh tế, hàn gắn viết thương chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân. Trong nông nghiệp, nhanh chóng khôi phục một số ngành sản xuất chính như chè, rau, từng bước nâng diện tích và sản lượng cây lương thực, thực phẩm, duy trì và phát triển các loại cây đặc sản; vấn đề khai hoang, phục hoá, dãn dân thành thị ra nông thôn xây dựng các vùng kinh tế mới; định canh, định cư cho người dân tộc thiểu số. Về lâm nghiệp đã tiến hành khảo sát, lập quy hoạch, khoanh vùng bảo vệ, khai thác rừng, lập công ty lâm sản, hình thành mạng lưới kiểm lâm nhân dân, khôi phục và củng cố các cơ sở nghiên cứu lâm sinh, hạn chế khai thác và phá rừng bừa bãi. Trong công nghiệp, thực hiện chủ trương khôi phục và duy trì các ngành quan trọng như điện, nước, một số nhà máy chế biến trà, các cơ sở sửa chữa cơ khí, sản xuất công cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, tiếp tục khôi phục sản xuất đá, cao lanh, sứ, vật liệu xây dựng, phân bón, thuốc trừ sâu, chế biến thức ăn gia súc, các nghề thủ công mỹ nghệ ở Đà Lạt. Đẩy mạnh củng cố và phát triển giao thông vận tải, thương nghiệp, vật tư, xây dựng cơ bản, tài chính, ngân hàng.

Thành tựu nổi bật trong giai đoạn này là việc đấu tranh trấn áp bọn phản cách mạng và giải quyết vấn đề FULRO; xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở; tiếp nhận và thực hiện phân bố dân cư trên các địa bàn, xây dựng các vùng kinh tế mới; phát triển kinh tế vườn hộ đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Đảng bộ luôn tìm tòi, học hỏi những hướng đi, cách làm sáng tạo phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của địa phương trong từng thời điểm cụ thể. Những kết quả đó có ý nghĩa thiết thực, tạo tiền đề cho bước phát triển tiếp theo trong thời kỳ đổi mới.

 Tháng 12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức cán bộ, từ đổi mới phương pháp lãnh đạo đến phong cách hoạt động, từ đổi mới kinh tế đến đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Trong chủ trương đổi mới toàn diện, Đại hội VI dành chú ý đặc biệt cho đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, Đại hội chỉ ra rằng đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn, mà là tìm ra phương thức, con đường để đạt được mục tiêu đó với hiệu quả cao hơn. Đại hội VI của Đảng đánh dấu bước ngoặt cơ bản trong tiến trình hình thành đường lối đổi mới ở nước ta, tạo bước đột phá lớn đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên.

Trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, tỉnh Lâm Đồng đã phát huy được năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế, tốc độ tăng trưởng luôn ở mức cao, đẩy mạnh việc khai hoang, mở rộng diện tích cây trồng, hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp dài ngày và các loại rau, hoa, gắn với phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến phục vụ cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, cơ sở vật chất kỹ thuật được đầu tư xây dựng tương đối đồng bộ và từng bước hiện đại; gắn liền quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế với tăng cường hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Bộ máy Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân từng bước củng cố, kiện toàn. Tình hình chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững tạo điều kiện cho phát triển kinh tế- xã hội, không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, đề cao vai trò tích cực vận động nhân dân của mặt trận và các đoàn thể quần chúng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, truyền thống cách mạng của các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước.

Nếu như những năm đầu đổi mới, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Lâm Đồng lần thứ IV (10-1986) chỉ mới đặt ra mục tiêu là “giảm bớt khó khăn, tiến tới ổn định dần đời sống cán bộ, công nhân viên, lực lượng vũ trang và nhân dân lao động, tạo ra sự biến đổi đáng kể về mặt xã hội nhất là vùng dân tộc, vùng kinh tế mới”, thì sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng tình hình kinh tế- xã hội của tỉnh đã phát triển khá toàn diện, đời sống nhân dân được cải thiện và từng bước xây dựng nền kinh tế của tỉnh theo hướng thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đây là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định vai trò của các thành phần kinh tế như kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài…, là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh.

Bằng các chủ trương, chính sách mới ra đời như đổi mới cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô chuyển từ cơ chế quản lý hành chính bao cấp sang cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm và tự hoạch toán kinh doanh đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh; điều chỉnh, sắp xếp lại các doanh nghiệp, tổ chức lại sản xuất, thực hiện phân công phân cấp cho địa phương và cơ sở, xoá bỏ mọi hình thức bao cấp, kiểm soát và xoá bỏ độc quyền kinh doanh, đẩy mạnh liên doanh, liên kết và xuất khẩu… tạo tiền đề và hành lang pháp lý cho sản xuất hàng hoá phát triển mạnh mẽ, nhất là các mặt hàng thế mạnh của tỉnh (rau, hoa, chè, cà phê, dâu tằm, khoáng sản…) đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng cao của thị trường trong nước và xuất khẩu đem lại nguồn thu ngân sách đáng kể cho tỉnh. Năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế hầu hết được giải phóng và phát huy thêm một bước.

Tỷ trọng các ngành sản xuất trong nền kinh tế có sự thay đổi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sản xuất công nghiệp và dịch vụ tăng dần lên hàng năm cả về tuyệt đối và tương đối, so với sản xuất nông nghiệp. Cơ cấu các vùng kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so sánh. Trong từng địa phương của tỉnh và đã hình thành các vùng sản xuất chuyên canh nguyên liệu chất lượng cao phục vụ cho sản xuất kinh doanh và chế biến, sản phẩm hàng hoá có giá trị kinh tế và khả năng cạnh tranh cao trên thị trường.

Những chuyển biến đó đã làm tăng thêm tiềm lực cho nền kinh tế địa phương, tăng dần tích luỹ từ nội bộ của nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để tiến tới ổn định và phát triển bền vững, giải quyết cơ bản đời sống của các tầng lớp nhân dân. Đồng thời, thể hiện bước tiến bộ vượt bậc của Đảng bộ trong nhận thức cũng như trong lãnh đạo và chỉ đạo điều hành phát triển nền kinh tế theo hướng thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới.

Vào những năm 80 của thế kỷ XX sự nghiệp văn hoá, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế… của đất nước cũng như của tỉnh hầu như rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ít được quan tâm giải quyết. Truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc ít được phát huy, các vấn đề về con người cũng như vai trò của con người với tư cách là chủ thể của sự phát triển không được chú ý đúng mức.

Bước vào thời kỳ đổi mới, nhận thức sâu sắc quan điểm của Đảng coi giáo dục-đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đảng bộ Lâm Đồng (Khoá VI) đã lãnh đạo, chỉ đạo việc cụ thể hoá Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VIII) và Nghị quyết 09-NQ/TU Tỉnh uỷ (Khoá VI) đưa sự nghiệp giáo dục-đào tạo của tỉnh phát triển toàn diện, thực hiện được các mục tiêu về nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Đầu tư xây dựng mạng lưới y tế cơ sở, mạng lưới trường lớp vùng sâu, vùng xa và ở các địa bàn khó khăn đáp ứng nhu cầu học tập, khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân.

Các hoạt động khoa học-công nghệ đã chú trọng đưa các tiến bộ kỹ thuật vào phục vụ sản xuất và đời sống, nghiên cứu gắn với thực tiễn, ngân sách dành cho sự nghiệp phát triển khoa học công nghệ của tỉnh hàng năm tăng từ 1-2% trên tổng số ngân sách của tỉnh.

 Thực hiện chủ trương xã hội hoá với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, Đảng bộ Lâm Đồng chỉ đạo đưa các hoạt động xã hội hoá vào các lĩnh vực giáo dục-đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục- thể thao, khoa học-công nghệ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc thu hút đầu tư cơ sở vật chất, nguồn lực từ trong nhân dân, giải quyết việc làm cho người lao động. Các thiết chế văn hoá từ tỉnh đến cơ sở được xây dựng, củng cố và tôn tạo đáng kể. Những giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc trong tỉnh tiếp tục được kế thừa, phát huy góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Thực hiện có kết quả chương trình xoá đói giảm nghèo, chăm sóc những đối tượng chính sách, gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, tạo được niềm tin trong nhân dân.

Nhận thức về vị trí, vai trò của hệ thống chính trị và xây dựng hệ thống chính trị đã có sự đổi mới đáng kể, nhất là trong việc lãnh đạo hệ thống chính trị vận hành theo nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đảng vừa là bộ phận của hệ thống chính trị vừa là “hạt nhân” lãnh đạo hệ thống ấy hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật. Tích cực đấu tranh chống các quan điểm đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, chống các quan điểm sai trái hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị thống nhất. Thông qua vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội tạo sự đồng thuận trong nhân dân ngày càng tốt hơn. Việc ban hành và thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở với cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân, chính nhân dân vừa là người làm chủ xã hội, vừa là người làm chủ trực tiếp ở cơ sở thông qua các hình thức tự quản trong các cộng đồng dân cư. Đối với các vùng dân tộc thiểu số, vùng có đạo vai trò của già làng, trưởng bản, cha xứ… được các cấp uỷ Đảng và chính quyền chú ý phát huy có hiệu quả, nhất là trong việc vận động, tập hợp quần chúng nhân dân tham gia xây dựng chính quyền cơ sở ngày càng vững mạnh, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Trong tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, hệ thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã, các nước Đông Âu sụp đổ, các thế thực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng tôn giáo len lỏi vào các cộng đồng dân cư, tuyên truyền kích động tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chế độ hòng gây mất ổn định tình hình, làm giảm sút niềm tin trong nhân dân. Song, Đảng bộ Lâm Đồng vẫn vững vàng kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh thực hiện công cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng, đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục tiến lên.

Hệ thống tổ chức Đảng từ tỉnh đến cơ sở thường xuyên tự đổi mới và tự chỉnh đốn, coi đây là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, củng cố và xây dựng tổ chức cơ sở Đảng gắn với việc tự kiểm điểm đánh giá phân tích chất lượng Đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng, qua các kỳ Đại hội Đảng bộ các cấp, bước đầu xây dựng được phong cách làm việc có chương trình, có kế hoạch, lựa chọn các vấn đề trọng tâm, trọng điểm để đề ra các nghị quyết chỉ đạo sát với thực tiễn. Mối quan hệ giữa các cấp uỷ Đảng với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận và các đoàn thể các cấp bước đầu được đổi mới theo hướng tạo điều kiện để phát huy vai trò của các đoàn thể và mặt trận chủ động trong các hoạt động, Đảng không làm thay Nhà nước, đề cao vai trò quản lý Nhà nước của các cấp chính quyền, thực hiện quản lý nhà nước bằng hiến pháp và pháp luật.

Thường xuyên chăm lo công tác tư tưởng chính trị của Đảng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, đổi mới tư duy, thống nhất tư tưởng trên những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới.

Trong công tác tổ chức cán bộ, đánh giá cán bộ đã chú ý lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất và năng lực, lấy nhu cầu nhiệm vụ làm căn cứ để bố trí đề bạt cán bộ. Gắn việc sinh hoạt của cán bộ, đảng viên với việc đánh giá, giám sát của nhân dân nơi cư trú tạo mối quan hệ khăng khít giữa cán bộ với nhân dân, nhân dân với cán bộ nhằm phát huy tính tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên mọi lúc mọi nơi, nâng cao chất lượng đảng viên trong tình hình mới.

Nhìn lại chặng đường 20 năm lãnh đạo thực hiện sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cùng với cả nước, Lâm Đồng cơ bản thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế-xã hội, tình trạng nghèo nàn và lạc hậu kéo dài nhiều năm, từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội… Bộ mặt nông thôn, vùng sâu, vùng xa của tỉnh không ngừng được đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc được cải thiện đáng kể và có mặt khởi sắc. Bước đầu hình thành một số yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng ta lãnh đạo ngày càng được củng cố và tăng cường, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, những thành tựu quan trọng đó chứng tỏ khả năng vận dụng và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đối với Đảng bộ Lâm Đồng là đúng đắn và sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn Lâm Đồng.

Tuy vậy, sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới tình hình kinh tế xã hội của Lâm Đồng vẫn trong tình trạng chậm phát triển và thiếu bền vững, nhiều vấn đề trên lĩnh vực văn hoá, xã hội… vẫn còn yếu kém, bức xúc chậm được giải quyết. Nạn quan liêu tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của không ít cán bộ, đảng viên vẫn nghiêm trọng. Đời sống nhân dân nhất là ở vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số tuy có bước cải thiện đáng kể nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn. Nội dung và hình thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới. Một số tổ chức cơ sở đảng yếu kém kéo dài, hiệu lực quản lý nhà nước trên một số mặt chưa cao. Những yếu kém tồn tại đó đòi hỏi Đảng bộ Lâm Đồng cần nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo toàn diện, tiếp tục phát huy những thành tựu của 20 năm đổi mới để đến năm 2010 đưa Lâm Đồng ra khỏi tình trạng chậm phát triển.

Từ thực tiễn 30 năm xây dựng và phát triển, Đảng bộ và nhân dân Lâm Đồng đã đạt được những thành tựu lớn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới theo đường lối của Đảng. Từ thực tiễn đó, Đảng bộ Lâm Đồng đã nhận thức được một số bài học kinh nghiệm quý báu:

1. Luôn luôn quán triệt quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp vào hoàn cảnh, điều kiện của địa phương để đề ra chủ trương, giải pháp đúng đắn lãnh đạo nhân dân thực hiện đạt nhiều thành tựu.

Đường lối, chủ trương của Đảng là sản phẩm kết tinh trí tuệ của toàn Đảng và thực tiễn phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, được thể hiện tập trung nhất trong các kỳ Đại hội của Đảng, trong các Cương lĩnh chính trị nhằm xác định phương hướng, nhiệm vụ cách mạng của đất nước qua mỗi thời kỳ để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là lý tưởng, là lẽ sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta; là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Các đảng bộ địa phương, các cấp uỷ Đảng và tất cả cán bộ, đảng viên có nhiệm vụ quán triệt, vận dụng, đồng thời tuyên truyền, giáo dục vận động nhân dân cùng thực hiện các chủ trương đường lối đó của Đảng phù hợp với từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể.

Sau ngày giải phóng, Lâm Đồng là tỉnh nghèo, nền kinh tế chủ yếu tự cung tự cấp, cơ cấu dân cư không ổn định, tình hình an ninh chính trị phức tạp, nhưng Đảng bộ đã quán triệt, vận dụng đường lối, quan điểm của Đảng vào tình hình thực tiễn của địa phương với tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường, đồng thời phát huy đến mức cao nhất sức mạnh tổng hợp của địa phương và sự giúp đỡ của các cấp, các ngành Trung ương và các tỉnh bạn. Trong từng thời điểm lịch sử khác nhau, những chủ trương, đường lối của Đảng đều nhằm mục tiêu tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất cũ do chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ để lại, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới tương ứng; phát triển kinh tế- xã hội gắn với củng cố, xây dựng quốc phòng, an ninh vững chắc.

Là một tỉnh giàu tiềm năng về tài nguyên, khí hậu ôn hoà, thuận lợi cho việc phát triển kinh tế-xã hội, nhưng vấn đề có ý nghĩa quyết định là Đảng bộ phải có những chủ trương, giải pháp và tổ chức thực hiện có hiệu quả bằng sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới. Phát triển kinh tế xã hội gắn với việc củng cố, xây dựng vững chắc quốc phòng, an ninh. Đặc biệt là trong công cuộc đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề ra đã được Đảng bộ quán triệt, vận dụng và thực hiện, những quan điểm này được phát triển, bổ sung, quán triệt qua các Đại hội VII, VIII, IX của Đảng. Thực tiễn cho thấy, trong từng thời kỳ Đảng bộ Lâm Đồng đã xác định đúng các nhiệm vụ trọng tâm, những khâu đột phá để có chủ trương, giải pháp phù hợp, đồng thời thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo, kịp thời phát hiện và giải quyết các khó khăn, mâu thuẫn nảy sinh. Đảng bộ coi trọng phát triển kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ; thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; coi trọng công tác định canh, định cư trong vùng đồng bào dân tộc ít người.

2. Không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, nắm vững và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng.

Lâm Đồng là một tỉnh miền núi, có hơn bốn mươi dân tộc anh em cùng chung sống, bao thế hệ đã gắn bó, đoàn kết với nhau trong lao động và chiến đấu chống kẻ thù chung giành lại độc lập dân tộc. Trải qua một thời gian dài xây dựng và bảo vệ quê hương, các thế hệ cư dân Lâm Đồng đã hình thành mối quan hệ cố kết cộng đồng bền chặt, gắn bó trên nhiều phương diện như văn hoá, xã hội, kinh tế, được thử thách qua những bước thăng trầm của lịch sử, trở thành sức mạnh đoàn kết toàn dân, chính nhờ sức mạnh đoàn kết đó mà bảo lưu được những giá trị văn hoá, phát huy được truyền thống cách mạng. Để thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã đồng cam cộng khổ với nhân dân, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiếu số, vùng sâu, vùng xa, chịu đựng hy sinh gian khổ cùng nhân dân. Trong mọi hoàn cảnh luôn nắm vững quan điểm tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

 Các vấn đề dân tộc, tôn giáo, đất đai, tài nguyên và quyền lợi về vật chất, văn hoá tinh thần…, luôn là những vấn đề nhạy cảm mà kẻ kẻ thù dễ lợi dụng để gây mâu thuẫn chia rẽ. Do vậy, Đảng bộ đã không ngừng đẩy mạnh việc xây dựng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện đầy đủ chính sách dân tộc và tôn giáo của Đảng, luôn quan tâm các chính sách xoá đói, giảm nghèo, giao đất, giao rừng, chú ý đến hỗ trợ xã nghèo, hộ nghèo, xoá mù chữ, phát triển giáo dục đào tạo, coi đó là những nhiệm vụ chiến lược quan trọng của Đảng.

Trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều biến đổi sâu sắc, Đảng bộ đã quán triệt và cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với từng đối tượng cụ thể, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở với phương châm “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nội dung, phương thức hoạt động của mặt trận, các đoàn thể nhân dân từng bước đổi mới theo hướng tập trung về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động, đa dạng hoá các hình thức tập hợp, đáp ứng nhu cầu, lợi ích thiết thực của nhân dân, củng cố khối đoàn kết trong nhân dân, trong các dân tộc, các tôn giáo ở địa phương. Mặt khác, chú trọng giải quyết các khiếu nại, tố cáo của nhân dân ngay từ cơ sở, ngăn chặn kẻ xấu kích động, lôi kéo quần chúng làm điều sai trái; phát hiện và xử lý kịp thời các hiện tượng có thể làm mất ổn định chính trị, gây chia rẽ khối đại đoàn kết trong cộng đồng dân cư. Luôn quan tâm tìm hiểu đặc điểm, tâm lý, tập quán của từng dân tộc, từng vùng. Cử cán bộ làm công tác tuyên truyền, vận động đồng bào đoàn kết theo chính sách của Đảng.

Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền vận động nên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia các phong trào: thi đua yêu nước, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội. Trong những năm qua, các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo kích động, lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số gây mất ổn định chính trị ở một số tỉnh Tây Nguyên, nhưng ở Lâm Đồng vẫn giữ được sự ổn định, không có xung đột, mâu thuẫn giữa các dân tộc, tôn giáo. Tuy vậy, trong tình hình hiện nay vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố có thể dẫn tới gây bất ổn định chính trị xã hội không thể xem thường.

3. Phát triển toàn diện kinh tế-xã hội , đồng thời phải chú trọng các vùng trọng điểm, thường xuyên quan tâm, chăm lo vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Là một tỉnh có trên 20% đồng bào dân tộc thiểu số cư trú ở các địa bàn, mỗi dân tộc có trình độ phát triển, phong tục tập quán, văn hoá khác nhau. Do đó, việc chăm lo, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là vấn đề có tính chiến lược.

Thành tựu có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là thực hiện có hiệu quả công tác định canh, định cư, xen canh, xen cư giữa đồng bào kinh và đồng bào dân tộc thiểu số, gắn định canh định cư với việc hướng dẫn đồng bào dân tộc thiểu số trồng cây cà phê, phát triển lúa nước và làm nghề rừng, mạnh dạn giao đất, giao rừng cho đồng bào để rừng có chủ, có người bảo vệ, chăm sóc. Đây không chỉ là vấn đề kinh tế-xã hội mà còn là vấn đề an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái. Quá trình thực hiện định canh định cư thực chất là một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc, phải giải quyết hàng loạt vấn đề về kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật, vốn đầu tư… trong đó nổi lên hàng đầu là phát triển sản xuất hàng hoá trên cơ sở phát huy thế mạnh tự nhiên, con người của từng dân tộc, từng vùng.

Con đường để đồng bào các dân tộc thiểu số thoát khỏi cảnh nghèo đói, lạc hậu không phải là làm ăn theo kiểu tự cấp, tự túc mà phải đưa đồng bào đi vào con đường sản xuất hàng hoá. Thực tiễn ở Lâm Đồng đã chứng minh rất sinh động về hướng đi này bằng con đường phát triển kinh tế vườn hộ trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số sau khi đã định cư. Lợi ích to lớn không chỉ về kinh tế mà còn về chính trị, an ninh, tâm lý xã hội, môi trường sinh thái, là một tiến bộ có ý nghĩa cách mạng.

Các chủ trương, chính sách và thực tiễn diễn ra ở Lâm Đồng đã khẳng định rằng: Quá trình phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc phải kiên trì, bền bỉ giáo dục, giác ngộ quần chúng, trong đó chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc. Cán bộ, Đảng viên phải thật sự tin vào dân, dựa vào dân, tôn trọng dân, gương mẫu trước dân, nói đi đôi với làm và hết sức chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào. Để hoạt động được ở vùng đồng bào dân tộc thiếu số, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ phải nắm vững chính sách dân tộc của Đảng. Đảng bộ Lâm Đồng xác định việc đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc là yêu cầu vừa cấp bách, vừa cơ bản và lâu dài. Đó cũng là nội dung lớn, là vấn đề then chốt để thực hiện chính sách dân tộc của Đảng.

Trong 30 năm qua, tỉnh Lâm Đồng đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số trung thành, vững vàng về chính trị, có uy tín lãnh đạo quần chúng, nhưng Công tác đào tạo cán bộ dân tộc có nhiều khó khăn, phức tạp, do đó, phải có quy hoạch, tạo nguồn, có chế độ, hình thức đào tạo thích hợp, đồng thời phải quản lý, sử dụng tốt số cán bộ đã có và chú ý xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở.

4. Phát huy vị thế của vùng chiến lược quan trọng, truyền thống cách mạng anh hùng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Là một tỉnh miền núi của Nam Tây Nguyên, với nhiều dân tộc thiếu số hiện đang sinh sống xen kẽ lẫn nhau, trong quá trình hình thành và phát triển các dân tộc đã sống cố kết với nhau rất chặt chẽ, họ cùng chung một sứ mệnh lịch sử. Do hoàn cảnh tạo nên, tất cả đã chung sức, chung lòng đoàn kết với nhau để đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Là một tỉnh có vị thế chiến lược cực kỳ quan trọng về quốc phòng và an ninh. Trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập, cũng như trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng bộ Lâm Đồng luôn nắm vững tình hình, hiểu rõ đặc điểm của từng thời điểm lịch sử để từ đó quán triệt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng vào điều kiện thực tế của địa phương.

Trong giai đoạn thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng bộ đã phát huy tính sáng tạo, vận dụng những kinh nghiệm xây dựng căn cứ kháng chiến, căn cứ hậu phương trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ vào việc xây dựng lực lượng, bố trí thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân nhằm bảo vệ địa bàn chiến lược, lãnh thổ của đất nước, đặc biệt quan tâm đến thế trận quốc phòng và an ninh ở vùng căn cứ, vùng đồng bào dân tộc thiếu số, vùng sâu, vùng xa.

Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Lâm Đồng luôn phát huy tinh thần đoàn kết, tự lực tự cường, truyền thống cách mạng, những bài học kinh nghiệm của cha ông, chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, quan tâm đến chính sách xã hội đối với đồng bào dân tộc thiếu số ở vùng sâu, vùng căn cứ cũ, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, từ chủ trương đến phương thức, hình thức vận động hợp với lòng dân. Đây là một việc làm cực kỳ quan trọng và then chốt, mang tính chiến lược trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ đất nước, nó có ý nghĩa vô cùng sâu sắc đối với đường lối chủ trương của Đảng, tạo thêm niềm tin tưởng cho nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Đó cũng là trách nhiệm của các cấp uỷ, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở.

5. Thường xuyên xây dựng Đảng bộ vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu để Đảng bộ thực sự xứng đáng là hạt nhân chính trị, đội tiên phong lãnh đạo các phong trào cách mạng của nhân dân trong tỉnh.

 Sự phát triển của phong trào cách mạng ở Lâm Đồng trong hơn 30 năm qua gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng. Sau ngày miền Nam giải phóng, thống nhất Tổ quốc, Đảng bộ Lâm Đồng lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh cùng cả nước tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược : xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để làm tròn vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, Đảng bộ Lâm Đồng luôn chú trọng công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

 Sự trưởng thành lớn mạnh của Đảng bộ là kết quả của sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và quá trình hoạt động bền bỉ, hy sinh phấn đấu, khắc phục mọi gian khổ của các thế hệ cán bộ, đảng viên qua các thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, cách mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới hiện nay. Đó là quá trình quán triệt vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào điều kiện cụ thể của tỉnh nhà. Sự trưởng thành này là kinh nghiệm của hoạt động thực tiễn, là kết quả của công tác đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng bộ, từng bước loại trừ tư tưởng cá nhân, bè phái, cục bộ, tư tưởng bi quan, dao động. Đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, biến chất, bảo thủ, trì trệ, tham nhũng…, làm tổn hại đến uy tín của Đảng và ngăn cản đến tiến trình của sự nghiệp đổi mới đất nước.

Việc xây dựng Đảng bộ vững mạnh về chính trị và tư tưởng đòi hỏi phải đưa ra những chủ trương, quyết sách đúng cho từng thời kỳ, từng giai đoạn, thể hiện được sự vận dụng sáng tạo đường lối quan điểm của Đảng phù hợp với tình hình địa phương. Xây dựng Đảng vững mạnh đòi hỏi phải tạo ra sự thống nhất về tư tưởng và hành động. Vấn đề quan trọng là phải chú trọng công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng như cho nhân dân. Chính nhờ làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng nên trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, Đảng bộ Lâm Đồng luôn vững vàng, không hoang mang giao động, vượt qua những khó khăn, thử thách và giữ vững vai trò lãnh đạo. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức trở thành nhiệm vụ then chốt, xuyên suốt quá trình lãnh đạo của Đàng, là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho mọi thành công và có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Để xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, Đảng bộ đã thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, trong đó lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm cơ bản, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, kỷ luật nghiêm minh, tự giác…

Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ luôn quan tâm xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt. Đặc biệt là xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong Ban chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ có đủ năng lực, tiếp nhận, vận dụng và thực hiện đường lối của Đảng. Việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, trong sáng, suốt đời phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, có lối sống lành mạnh, gương mẫu sẽ có sức lôi cuốn, tập hợp nhân dân. Việc giới thiệu đảng viên đương chức về các chi bộ, thôn, buôn, khu phố và tham gia sinh hoạt với địa phương theo Quy định 535 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ (Khoá VI) đã được các cấp uỷ quan tâm và phát huy tác dụng tích cực. Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh phải luôn gắn liền với tự đổi mới, chỉnh đốn Đảng, không ngừng nâng cao trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của cấp uỷ, luôn luôn giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng về lý luận chính trị, trình độ văn hoá, nghiệp vụ…, xây dựng đi đôi với bảo vệ Đảng.

Những thành tựu và kinh nghiệm tích luỹ trong 30 năm qua là hành trang quý báu của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Lâm Đồng trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

 

Lượt xem: 12.587
Liên kết website

Thống kê truy cập
  • 007466076
  •  Đang online: 158
  •  Trong tuần: 158
  •  Trong tháng: 164.414
  •  Trong năm: 2.589.647